- Lời Mở Đầu
- Nguyên Do Nào Khiến Tôi Niệm Phật
- Ý Nghĩa Tu Hành
- Ý Nghĩa Bí Mật Của Câu A Di Đà
- Muốn Được Nhất Tâm Không Tu Xen Tạp
- Niệm Phật Cách Nào Để Được Nhất Tâm
- Phát Tâm Bồ Đề
- Những Dấu Hiệu Trước Khi Được Nhất Tâm
- Những Dấu Hiệu Khi Được Nhất Tâm
- Biến Chuyển Sau Khi Được Nhất Tâm
- Giải Tỏa Ba Nghi Vấn
- Cảnh Giới Nội Tâm
- Đánh Đuổi Tâm Ma
- Không Niệm
- Ý Nghĩa Diệu Âm
- Ý Nghĩa Câu “Nhất Tâm Bất Loạn”
- Tại Sao Người Tu Lưu Lại Xá Lợi
- Niệm Phật Đại Thừa
- Đại Nguyện Thứ Mười Tám
- Đạo Phật Không Phải Là Tôn Giáo
- Hiểu Lầm Cúng Dường Và Lễ Bái
- Hiểu Lầm Hai Chữ Buông Xả
- Hiểu Lầm Hai Chữ Thanh Tịnh
- Ý Nghĩa Thời Gian
- Niệm Phật Không Làm Mất Thời Gian Sinh Hoạt
- Nuối Tiếc
- Cách Niệm Phật Chung Với Con
- Niệm Phật thế
- Tự Quy Y Với Phật
- Bố Thí Là Niềm Hạnh Phúc Vô Biên
- Hiểu Lầm Trí Tuệ Của Phật
- Hiểu Lầm Lòng Từ Bi Của Phật
- An Phận Là Tự Tại
- Cứu Thần Thức
- Cảnh Giác
- Tại Sao Niệm Phật Mà Vẫn Còn Khổ?
- Tại Sao Không Di Cư Về Cõi Phật?
- Hãnh Diện Cho Phụ Nữ, Thương Cho Nam Giới
- Buồn Cho Những Chuyện Bất Công
- Ý Nghĩa Ngày Giỗ
- Thương Cho Người Đời Mâu Thuẫn
- Muốn Cứu Con Phải Dùng Tình Thương Cứng Rắn
- Xóa Tan Mặc Cảm
- Hy Sinh Không Đúng Chỗ
- Chuyển Đau Khổ Thành Bình An
- Chuyển Tuyệt Vọng Thành Hy Vọng
- Giấc Mơ Như Thật
- Chuột Biết Trả Thù
- Ba Kiếp Trong Một Đời
- Người Bị Chết
- Người Chết Thành Rắn
- Rắn Thành Người
- Tiên Bị Đọa
- Phần Kết Luận
- Chư Phật Gia Hộ
- Lá Thư Tâm Sự
- Lời Thỉnh Cầu
- Phần Nhắc Nhở Tổng Kết
- Tin Giờ Chót
- Đúng Hay Sai ?
- Nam Mô A Mi Đà Phật
- Lời chân thật
Nhất tâm bất loạn?
Nhất tâm chỉ còn một niệm?
Niệm mà không niệm, không niệm mà niệm?
(Ở đây chỉ giải thích câu này, còn hai câu trên đã giải thích trong bài
“Những Dấu Hiệu Khi Được Nhất Tâm” rồi.)
Sau khi được nhất tâm tôi mới lãnh ngộ được ba ý nghĩa cao thâm này.
Lời của Ngài Cưu-ma-la-Thập dịch: “Nhất tâm bất loạn”. Câu này hoàn toàn chính xác. Không những chính xác mà còn có dụng ý thâm sâu, nên khiến chúng ta hiểu lầm, cho là Ngài dịch không được chính xác.
Chúng ta đều có một câu hỏi rằng: Làm sao niệm Phật có thể đạt đến nhất tâm bất loạn? Điều này vô cùng khó khăn, lỡ chúng ta niệm Phật cả đời mà vọng tưởng vẫn còn thì làm sao có hy vọng vãng sanh? Vì vậy mà chúng ta hoang mang không có tự tin. Chúng ta hoang mang là vì không hiểu được ý của Ngài (thật ra ý Ngài dịch rất đơn giản vì chúng ta không hiểu nên trở thành phức tạp).
Ngài nói trên cái chơn tâm Phật tánh của chúng ta, không phải nói trên cái tâm vọng tưởng, chấp trước của chúng ta. Vọng tưởng và nghiệp chướng của chúng ta không bao giờ hết. Nếu có thể thì Phật đâu cần dạy chúng ta phương pháp tu để đới nghiệp vãng sanh? (đới nghiệp: là mang theo nghiệp. Vãng sanh: là thoát khỏi luân hồi để sanh về cõi Cực Lạc. Luân hồi: là đầu thai trở lại)
Chúng ta xưa nay bỏ quên tâm thật (tâm Phật) của mình mà chỉ dùng cái tâm vọng tưởng, chấp trước của thân giả tạm (tâm giả) để nhìn sự việc nên ta mới hiểu lầm ý của Ngài.
Dụng ý của Ngài muốn nói là: khi chúng ta phát tâm niệm Phật để thành Phật thì chúng ta đã dùng tâm Phật của mình để mà niệm Phật. Lúc mới phát tâm tu niệm dĩ nhiên vọng tưởng kéo đến dồn dập. Niệm một thời gian thì tâm Phật của ta mới được thức tỉnh. Khi tâm Phật được thức tỉnh thì tâm của ta mới biết phân biệt được đâu là tốt xấu, chánh tà. Niệm tinh tấn lâu ngày chơn tâm của ta sẽ tự nhiên hiển hiện. Trí tuệ khai mở xua đuổi hết các tâm ma nhơ bẩn, xấu xa của ta, khống chế được vọng tưởng (khống chế không có nghĩa là diệt sạch). Khi tâm hoàn toàn được thanh tịnh thì không còn bị các tâm loạn dẫn dắt mê hoặc (tâm loạn, không phải vọng tưởng loạn). Quyết một lòng niệm Phật để thành Phật, dù cho vật đổi sao dời hay vũ trụ có sụp đổ thì tâm ta vẫn kiên định giữ câu A Di Đà.
Nhất - Một lòng.
Tâm - Chuyên tâm niệm Phật.
Bất - Không thối chuyển.
Loạn - Không bị loạn tâm mê hoặc.
Vậy câu nhất tâm bất loạn của Ngài Cưu-ma-la-thập dịch hoàn toàn chính xác, đúng với ý nghĩa kinh điển của Phật.
Ngài Huyền Trang Tam Tạng dịch: “Nhất tâm hệ niệm”. Ngài nói trên cái căn cơ hiểu biết của chúng sanh. Ngài hoàn toàn không nói trên cái sự hiểu biết của Ngài, đây là khổ tâm và dụng ý của Ngài. Tại sao? Vì Ngài thấy câu nhất tâm bất loạn quá cao thâm. Ngài lo rằng căn cơ chúng sanh không hiểu suốt. Vì muốn độ chúng sanh nên Ngài dịch nhất tâm hệ niệm. Vì Ngài biết rõ chỉ cần chúng sanh Nhất tâm hệ niệm, thì chúng sanh sẽ đạt đến Nhất tâm bất loạn.
Một Ngài thì dịch trên tâm của chúng sanh còn một Ngài thì dịch trên căn cơ của chúng sanh. Nhập hai câu dịch của hai Ngài chung lại với nhau thì chúng ta sẽ thấy “Thập toàn thập mỹ”. Hai câu này bổ túc và trợ lực cho nhau, giúp cho chúng sanh được nhiều sự lợi lạc hiểu biết từ phát tâm tu cho tới khi thành quả. Công đức của hai Ngài sư tổ thật là vô lượng vô biên.
Gửi ý kiến của bạn