I. Nguồn gốc Kinh Dịch

22 Tháng Năm 201410:26 CH(Xem: 11310)
Theo cổ truyền, Dịch kinh do thánh Phục Hy ở đời Thượng cổ nghĩ ra, và giải thích rất sơ lược mỗi quẻ bằng vài chữ gọi là Soán từ. Rồi đến thời Trung Cổ có các thánh Văn Vương, Chu công và Khổng tử giải thích thêm cho rõ nghĩa bằng Soán truyện, Đại Tượng truyện cho mỗi quẻ, và bằng hào từ, tiểu tượng truyện cho mỗi hào. 
Quan sát thiên văn, địa lý và nhân loại, thánh hiền nhận thấy rằng tất cả mọi sự, mọi vật trong vũ trụ đều tuân theo một định luật chung là Dịch, biến chuyển không ngừng. Đây không phải chỉ là một nhận xét phiếm diện về hiện tượng bên ngoài, mà còn là một tin tưởng sâu sắc về bản thể nội tại. Nói một cách khác, tư tưởng Dịch không phải chỉ nhận xét rằng ở đời không có sự gì giữ y nguyên như thế mãi, nóng mãi rồi cũng phải lạnh, thịnh mãi rồi cũng phải suy, trị mãi rồi cũng phải có lúc loạn, v . v . Nó cao hơn sự hiểu biết thông thường đó về hai điểm:

1. Nó quả quyết rằng Dịch là nguyên lý của Vũ trụ, là nguyên nhân sinh tạo ra Vũ trụ, là sức mạnh giữ cho Vũ trụ được tiếp tục sinh tồn. Không có Dịch thì không có Vũ trụ, không có Dịch thì bộ máy Vũ trụ sẽ không chạy được nữa và sẽ tan vào hư vô. Nói cho rõ hơn, nguyên lý Dịch tức là ý niệm Thượng Đế trong Thiên Chúa giáo, hoặc ý niệm Chơn Như, Phật tính trong Phật giáo.

2. Và như vậy, hữu ý hay vô tình, nguyên lý Dịch chi phối cả thế giới cực đại và thế giới cực tiểu, bao hàm cả những khám phá của Thiên văn học và Nguyên tử học. Dịch thể hiện trong sự chuyển vận của các tinh tú trong bầu trời bao la. Dịch cũng thể hiện trong sự chuyển vận của các hạt điện tử chung quanh các hạt dương tử trong nguyên tử li ti.
Như vậy, ta thấy rằng trên căn bản, Dịch lý rất khoa học, chứ không huyền hoặc chút nào. Tuy nó không dựa vào sự thí nghiệm (experimentation) như khoa học vật lý hóa, nhưng nó dựa vào sự quan sát (observation) rất thực tế và sâu sắc các hiện tượng thiên nhiên và nhân sự như Thiên Văn học và Xã hội học, và một lý luận vững chắc không kém gì lý luận toán pháp, miễn là ta có đủ khả năng nhìn thấy những liên hệ tế nhị giữa các sức mạnh âm dương hoạt động trong vũ trụ, từ những thiên hà đến một hạt bụi, từ những hiện tượng vật lý đến những hiện tượng tâm lý, xã hội. Những liên hệ đó không rõ ràng bằng sự liên hệ giữa ẩn số và biến số trong một phương trình toán pháp, và nhất là chúng động (dynamique) chứ không tĩnh (statique), ta không thể gò ép chúng vào một phương trình tĩnh, mà có lẽ phải diễn tả chúng bằng những matrices.
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
29 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 9740)
Sách nói về Đạo giáo
29 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 9038)
Sách dạy về Đạo giáo
28 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 8063)
27 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 7875)
La litterature populaire se compose de proverbes (tục ngữ), de chansons (cadao) et de contes antiques (chuyện cổ tích).
18 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 11521)
Nghiên cứu về Kinh Dịch
16 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 8277)
14 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 10594)
Dịch 1000 bài thơ Đường theo lối thơ mới.
10 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 9607)
Dịch và bình luận thơ Tản Đà bằng Pháp văn.
21 Tháng Năm 2014(Xem: 207298)
1- 一 刀 兩 斷 Nhất đao lưỡng đoạn Một đao cắt đôi. Chỉ sự đoạn tuyệt quan hệ. 2- 一 了 百 了 Nhất liễu bách liễu Xong một là xong hết. Chỉ sự giải quyết xong một chuyện. 3- 一 日 三 秋 Nhất nhật tam thu Một ngày dài ba Thu. Chỉ thời gian tâm lý. 4- 一 日 千 里 Nhất nhật thiên lý Một ngày ngàn dậm.
21 Tháng Năm 2014(Xem: 12067)
I-Từ và Tự. Tự 字 là chữ, từ 詞 là lời. II-Nhiều lời hợp thành một câu. Một câu đầy đủ ý nghĩa, diễn tả hành động của chủ từ. III-Một câu đơn gồm: Chủ từ + thuật từ + thụ từ. Thí dụ: 我 喜 歡 咖 啡 Ngã hỉ hoan gia phi Tôi thích Cà-phê Ngã : chủ từ, hỉ hoan : thuật từ, gia phi : thụ từ. Chủ từ có thể là danh từ 名詞 hay đại danh từ 代名詞. Thuật từ có thể là : Nội thuật từ : 内動詞 Thí dụ: 花開 Hoa khai: hoa nở.
Hội nhập | Ghi Danh
KHÁCH VIẾNG THĂM
1,000,000