Những mẩu chuyện Đạo và Đời
Do Tuệ Viên sưu tầm
Đạo lý tự nhiên
(Kể theo Truyện cổ Phật giáo)
Có một chàng trai trẻ buồn thảm, khóc lóc đi đến chỗ Phật.
Phật dịu dàng hỏi chàng :
-Vì sao con rầu rĩ khóc lóc dữ vậy ?
-Bạch Thế Tôn ! Phụ thân con vừa mất tối qua.
-Nếu cha con mất rồi, dù con có khóc lóc thảm thiết đến mấy thì ông cụ cũng đâu sống lại được ?
-Con biết chứ, nhưng con hy vọng là Thế Tôn có thể giúp phụ thân con.
-Ta có thể giúp gì cho người đã chết ?
-Bạch Thế Tôn ! Ngài là người có nhiều năng lực, có trí huệ, từ tâm . . . tất nhiên là có thừa khả năng giúp cha con. Con nghe các vị thầy bùa, thầy pháp thường tuyên bố rằng : chỉ cần ở nhân gian này thôi họ cũng có thể tiến hành nghi lễ mở cửa thiên đàng đưa người chết lên đó. Họ còn làm được vậy, huống nữa là Ngài ? Chỉ cần Ngài nhận lời mở cổng thiên đàng dùm, chắc chắn cha con sẽ được vào.
Phật thấy chàng trai khóc lóc năn nỉ dữ quá, mỉm cười bảo :
-Thôi được rồi ! Con hãy ra chợ mua hai hũ sành mang về đây.
Chàng trai vừa nghe Phật phán, nín khóc liền. Nghĩ là Phật đã chịu giúp, mừng rỡ chạy ra chợ mua hai cái hũ sành đem về.
Phật bảo :
-Tốt lắm ! Giờ con hãy đổ đầy dầu vào một hũ và bỏ đá vào hũ kia, rồi ném cả hai cái hũ xuống ao.
Chàng thanh niên y lời. Dầu trong hũ chảy ra nổi lềnh trên mặt nước và hũ đá vì nặng quá nên chìm lỉm ở đáy ao.
Phật bảo chàng trai :
-Xong rồi, giờ con hãy đi mời các pháp sư, thuật sĩ tài ba nhất trong thành đến đây, nhờ họ cầu nguyện cho dầu chìm xuống hết và đá trong hũ kia hãy nổi lên.
-Ối trời ơi ! Bạch Thế Tôn, làm sao có thể như vậy được ? Đá nặng hơn nước nên phải chìm, dầu nhẹ nên mới nổi, đây là đạo lý tự nhiên xưa nay mà.
Phật cười bảo :
-Ờ ! Xem ra con rất rành về đạo lý tự nhiên và giải thích thao thao. Thế thì con cũng phải hiểu rõ, nếu phụ thân con thưở sinh tiền hành thiện, tạo nghiệp nhẹ như dầu, tất sẽ sanh lên cõi trời và không một ai có thể ngăn cản ông ấy. Còn nếu phụ thân con tạo nhiều ác nghiệp nặng như đá, lẽ tất nhiên ông ấy phải đoạ vào ba đường ác, cũng không ai có thể cản ngăn hay cầu nguyện cho ông ấy được. Đây chính là đạo lý tự nhiên mà Ta muốn con hiểu rõ. Nếu tạo nghiệp ác thì bị đoạ, tạo nghiệp lành thì được siêu thăng. Cảnh luôn ứng hợp với tâm, một cái tâm ác không thể sanh lên cõi trời, cho dù cổng trời luôn mở rộng. Người làm ác chắc chắn phải đoạ lạc, các pháp sư không thể cầu nguyện cho người chết sanh lên cõi trời, ngoại trừ chính họ hồi tâm hướng thiện thì mới có cơ duyên thoát khổ .
Cái chết sẽ đến với tất cả mọi người, không trừ một ai. Bão lụt, động đất, sóng thần . . . trong khoảnh khắc đã cướp đi sanh mạng của biết bao người . Rồi tai nạn lao động, tai nạn giao thông, bệnh tật, già yếu . . . và cuối cùng thì rồi ai cũng phải chết. Khác chăng là chết trong tình trạng đau đớn hay thầm lạng, hoàn cảnh xum họp hay ly tán và thời gian sớm hay muộn mà thôi.
Bất kể cái chết nào cũng đều một tính chất không thay đổi : “Những người hàng ngày sống lương thiện, chuyên làm lành tránh ác, tất sinh vào cõi lành. Giống như dầu, nhất định phải nổi lên mặt nước.”
Phật từng dạy : “Xem hướng cây nghiêng có thể đoán nó ngã về hướng nào. Cũng vậy, muốn biết người chết đi về đâu hãy nhìn cuộc sống hàng ngày của họ. Nếu nghiêng về ác, họ sẽ đoạ lạc. Nếu nghiêng về hiền, họ sẽ sanh về cõi tương ứng với tâm tư tốt đẹp của mình “. Vì vậy, nếu muốn cho bản thân được tốt đẹp trong đời này và đời sau, hãy cẩn thận, đừng gieo nhân bất thiện.
Tâm tịnh thì cõi tịnh.
(Kể theo Tinh Vân thiền thoại)
Có một vị nam cư sĩ mỗi ngày thường hái hoa tươi trong vườn nhà mình đem đến chùa chí thành dâng cúng Phật. Một hôm, khi đem hoa đến điện Phật, chợt gặp thiền sư Vô Đức từ pháp đường đi ra. Thiền sư hoan hỷ nói :
-Lành thay ! Lành thay ! Mỗi ngày anh đều đem hương hoa chí thành dâng cúng Phật, theo kinh nói, thường dùng hương hoa cúng dường, đời sau sẽ được phước báo thân tướng trang nghiêm.
Cư sĩ nghe nói, vui vẻ đáp :
-Đó là bổn phận con phải làm. Mỗi ngày khi đến chùa lễ Phật thì tâm con mát mẻ, giống như được tẩy rửa, nhưng khi về đến nhà thì lại phiền muộn. Bà nội trợ thường phiền hà ồn náo như cái chợ, con làm sao giữ gìn tâm mình cho thanh tịnh thuần khiết ?
Thiền sư Vô Đức hỏi :
-Ông thường dùng hoa tươi cúng Phật, hẳn có ít nhiều kiến thức về cắm hoa, bây giờ tôi hỏi ông, làm cách nào để giữ cho hoa được tươi lâu, tốt đẹp ?
Cư sĩ đáp :
-Muốn giữ gìn hoa được tươi lâu, mỗi ngày phải thay nước, và khi thay nước nên cắt bỏ một phần dưới cành hoa đi, vì phần cành nằm trong nước dễ bị thối rữa. Khi cành thồi rữa thì khó hấp thụ nước, làm cho hoa mau héo tàn.
Thiền sư Vô Đức nói :
-Giữ gìn cái tâm thanh tịnh thuần khiết cũng giống như thế. Hoàn cảnh sinh hoạt của chúng ta giống như nước trong bình, còn chúng ta là hoa. Chỉ có thường xuyên lọc sạch thân tâm, sửa đổi tính tình và luôn luôn sám hối, sửa đổi khuyết điểm mới có thể tạo nên sự tươi mát, an nhiên.
Nghe xong, cư sĩ hoan hỷ làm lễ cảm tạ :
-Cám ơn thiền sư khai thị cho con. Hy vọng sau này có cơ hội, con sẽ thân cận thiền sư, ở trong tự viện là thiền giả, an hưởng chuông sớm mõ chiều, yên tâm tĩnh trí trong tiếng kệ lời kinh.
Thiền sư Vô Đức nói :
-Đâu cần đợi cơ hội đến ở trong tự viện, ông hít vô thở ra đó là kinh kệ, mạch đập đó là chuông mõ, thân thể là chùa chiền, hai tai là tỉnh giác thì ở đâu cũng yên tĩnh.
Nước trong bình tự nó không thể trở nên hôi thối nếu không cắm hoa vào. Hoàn cảnh sống của chúng ta cũng như thế, sẽ không rắc rối, phiền phức . . nếu chẳng có những tâm niệm xấu ác hiện hành. Kinh Phật nói : “Tâm tịnh thì cõi tịnh “. Một khi tâm thanh tịnh thì ở đâu cũng là đạo tràng, trở thành tịnh độ. Vì vậy, mấu chốt của việc tu tập là luôn tịnh hoá thân tâm của mình.
Nhiều người nghĩ rằng, cuộc đời vốn đầy rẫy những nhiễm ô, tệ nạn, cám dỗ nên khó giữ tâm trong sạch. Họ ước muốn có một hoàn cảnh sống tốt hơn để có thể tu tập, và hẹn một ngày nào đó, có cơ hội sẽ vô chùa tu chẳng hạn. Nhưng họ đâu biết rằng, nếu đem tân niệm bất thiện vào chùa thì cũng khó giữ được thanh tịnh chốn thiền môn.
Kinh Bát Đại Nhân Giác nói : “Tuy vi tục nhân, bất nhiễm thế lạc”. Đó là nhân cách của người học Phật. Vẫn sống giữa cuộc đời, phải đối mặt cới cơm ăn áo mặc, bon chen danh lợi, nói chung bị vây quanh bởi tiền tài, danh vọng, sắc dục . . . mà người con Phật vẫn nỗ lực để luôn giữ mình trong sạch, không bị thói đời chi phối, vẩn đục. Để làm được điều này, trước hết bản thân mỗi chúng ta phải “tự tịnh kỳ ý”, tức làm sạch tâm ý của mình. Một khi tâm ý đã thanh tịnh thì mình có thể “Nhẫn nhịn đời nhưng không để cho quyền lực đen tối của đời sai sử. Tuỳ thuận thế gian nhưng không bị nhấn chìm trong dòng xoáy dơ bẩn của thế gian.”
Kinh Duy Ma nói : “Chúng sanh là Tịnh độ của Bồ Tát”. Chúng ta chưa phải là Bồ Tát nhưng nếu có thể giữ “tâm bình khí hoà”, biết lắng nghe và chia xẻ trong tinh thần hiểu biết-thương yêu, thì mỗi gia đình của chúng ta cũng sẽ biến thành một Tịnh độ nho nhỏ.
Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo.
(Kể theo Truyện dân gian Nga)
Có hai cha con nhà nọ vừa mới mua được một con lừa. Trên đường về nhà, người cha để cho con cưỡi lừa còn mình thì đi bộ.
Hai cha con vừa đi được một đoạn đường thì nghe có người nói với nhau :
-Con cái thời nay thật chẳng ra làm sao, mình cưỡi lừa để cha phải cuốc bộ.
Nghe thế, người cha bèn bảo con xuống đi bộ còn mình leo lên lưng lừa, đi tiếp. Đi được một đoạn đường nữa thì có người cười mỉa :
-Này, hãy nhìn cái lão già kia mà xem. Ai đời cha thì ung dung cưỡi lừa, bỏ mặc đứa con đi bộ. Làm cha như thế đấy.
Người cha không biết phải làm sao, bèn bảo con lên ngồi phía sau lưng mình và tiếp tục đi. Ông nghĩ : “Như thế này thì không còn ai nói được nữa”.
Hai cha con đi đến một làng nọ, lại nghe có người xì xầm :
-Con vật kia thật tội nghiệp. Hai cha con cùng leo lên cưỡi thì sức con lừa làm sao kham.
Thế là cả hai cha con quyết định cùng xuống đi bộ. Tưởng không còn ai chê trách vào đâu nữa, nào ngờ đi được một lúc thì người ta trông thấy bảo nhau :
-Hai cha con ông này khùng chắc. Có lừa sao không cưỡi lại đi cuốc bộ.
Đến lúc này, không nhịn được nữa, người cha kêu lên giận dữ :
-Kiểu này thì ông trời có nhẩy xuống đây cũng chưa làm vừa lòng thiên hạ, đừng nói gì tôi.
Đúng là : “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”, thiên hạ muốn nói xuôi cũng được, nói ngược cũng xong. “Chín người, mười ý”, nên chuyện đời cũng lắm nhiêu khê, sự sinh, sinh sự chập chùng. Lý lẽ thì có rất nhiều, mỗi lập trường, quan điểm đều có lý lẽ riêng. Vì thế, sống ở đời, một khi làm việc gì miễn sao mình thấy đúng, không trái với lẽ phải, lương tâm, đạo đức, không làm tổn hại đến ai là được, quyết không dao động. Cần phải có chủ kiến, giữ vững lập trường, quan điểm của mình nếu xét thấy điều đó đúng đắn. Không nên vì lời khen chê, bình phẩm vu vơ của người ngoài mà thay đổi, lạc mất phương hướng, đánh mất tự chủ. Trong từng hoàn cảnh, mỗi trường hợp cụ thể, điều cần thiết là phải xử khéo léo, phù hợp, thích đáng, lợi ích cho mình, cho người.
Tất nhiên, dư luận và bình phẩm rất cần thiết cho mình, nhưng nếu sống theo dư luận khen chê thì suốt đời chúng ta không làm được gì cả, thậm chí còn bị dằn vặt khổ não, cũng giống như hai cha con người cưỡi lừa kia vậy. Đừng quá bận tâm với những lời khen chê. Hãy xem lời ngợi khen là sự khích lệ để chúng ta nỗ lực hơn, còn lời chê bai như sự nhắc nhở chúng ta kiểm điểm lại mình, cố gắng khắc phục những chỗ còn khiếm khuyết. Khen chê chính là dịp cho chúng ta soi rọi lại chính mình. Do vậy, cần bình tĩnh, sáng suốt và tự chủ trước miệng lưỡi của thế gian.
Minh Đức
Cuốn sách quý.
(Kể theo Truyện ngụ ngôn của Lâm Thanh Tuyền)
Có một lão sư nổi tiếng thông thái, nhiều người nghe danh mến mộ, nô nức đến xin làm đệ tử. Nhưng mỗi khi học trò có thắc mắc, thưa hỏi, thì thầy chỉ đáp :
-Hãy sống với hiện tại!
Câu trả lời đơn giản này không làm các đệ tử hài lòng, họ cần một lời đáp “thánh triết” cao siêu hơn nên khẩn khoản xin sư phụn hãy cho lời giải như yêu cầu, như vậy mới thoả mãn lòng ham học của họ. Những lúc như thế, thầy thường lộ vẻ phật ý, miễn cưỡng bảo :
-Ừm ! Được thôi ! Đợi ta tra cứu trong sách thánh hiền rồi sẽ trả lời sau.
Nguyên là thầy có một pho sách dày cộm, nghe đồn trong đó ghi chép đủ hết những lời vàng, ý ngọc của thánh hiền. Cuốn sách ấy quý lắm nên thầy cất giữ kỹ lưỡng, cẩn thận dặn đệ tử không được phép bén mảng tới gần.
Ngày lại tháng qua, hễ có ai thắc mắc tiếp nữa thì thầy lại đáp :
-Hãy sống với hiện tại !
Điệp khúc này cứ thế tái diễn mãi. Thình thoảng thầy ôm sách ra, tra cứu trước cặp mắt thèm thuồng của chư đệ tử. Càng ngưỡng mộ sách thánh bao nhiêu, họ càng nghi ngờ khả năng tài trí của thầy mình. Thế là họ bàn tán râm ran :
-Dường như thầy mình . . . không biết gì ráo. Hỏi gì cũng chỉ biết đáp có một câu cũ rích . . . con nít nói cũng được.
-Tui nghi ổng không biết gì ngoài cái câu: ”Hãy sống với hiện tại “
-Mà hình như ổng chẳng giỏi hơn tụi mình là bao ? Có hay chăng là cuốn sách kia kìa ! nếu như chộp được cuốn sách đó thì chúng ta đều có thể làm thầy hết cả !
-Hừm ! Bọn ta đều là những kẻ tài hoa, chứ đâu có phải kẻ ngốc đâu mà ổng cứ nói mãi : “Hãy sống với hiện tại” chứ ? Nói thế, dạy thế thì ai mà không làm thầy được !
Thôi thì đủ lời bình phẩm phàn nàn sau lưng thầy. Cuối cùng, trong đầu người nào cũng nảy ra ý nghĩ : “Mình dáng cư xử cho lão sư đẹp dạ, biết đâu tới hồi lão chết, lão sẽ tặng mình quyển sách quý ? Hoặc giả lão không tặng thì mình cũng nhanh tay đoạt lấy . . . thế là mình có thể làm thầy ngon ơ, đường hoàng kế vị lão sư, thu nạp môn đệ, giải quyết mọi rắc rối khó khăn cho thiên hạ !
Ối chà chà ! Chừng ấy mình tha hồ mà nở mày nở mặt !”
Thời gian trôi qua, thầy mỗi ngày một già yếu, lúc hấp hối cũng chỉ để lại câu di ngôn cũ mèm : “Hãy sống với hiện tại !“ rồi bình thản trút hơi thở cuối cùng.
Thầy chết rồi, các môn đệ ra sức giành nhau quyển sách quý. Tội nghiệp quyển sách bị ngần ấy môn sinh trai tráng giật tới kéo lui, rách nát tan tành. Trận chiến lập tức đình chỉ khi họ bất ngờ phát hiện : toàn bộ cuốn sách quý dày cộm kia chỉ là giấy trắng, bên trong không có một chữ nào, ngoài trừ hàng chữ ghi ngoài bìa “Hãy sống với hiện tại ” là bút tích của sư phụ.
Đám môn đệ đều ngồi phịch xuống, bấy giờ họ mới hiểu ra sự thông thái của thầy và tinh hoa cuộc sống chính là : “Sống với hiện tại !”
Sống với hiện tại là tâm niệm hiện tiền của ta không bị quá khứ hay tương lai trói buộc, chỉ có “bây giờ và ở đây”. Tâm tư con người thay đổi không ngừng, luôn bám vào quá khứ, vị lai. Và đó chính là cội nguồn của buồn thương vui khổ . . .
Khi lãng quên hiện tại là ta đã đánh mất mình chỉ còn vọng niệm hiện hữu. Sống với hiện tại là mắt vẫn thấy, tai vẫn nghe nhưng không chạy theo. Vẫn biết rõ ràng nhưng ta có tự chủ, không khởi tình yêu ghét, nhờ vậy mà lòng rỗng lặng, bình an.
Sống với tâm thái này mới cho ta niềm hạnh phúc, giúp ta xử lý mọi việc đúng đắn, yêu thương tự nhiên, khoan thứ dễ dàng . . .
Sống với hiện tại là đưa tâm về nhà, hồn nhiên chào quá khứ, bình thản đón vị lai.
Hạnh Đoan
Thần thông.
(Kể theo Truyện ngụ ngôn của Lâm Thanh Huyền)
Có một ông ưa xem bói, mỗi khi gặp việc khó giải quyết thường tìm đến bốc sư nhờ xủ quẻ giúp và luôn tin tưởng họ là bậc thần thông quảng đại.
Ông ta có một đứa con trai rất thông tuệ nhưng tinh nghịch và thường phá bĩnh, lật tẩy bọn khoác lác, khoe khoang mình có thần thông.
Mỗi khi thấy cha mời họ tới nhà, nhân lúc dùng bữa, người con thường hỏi :
-Trong bát của thầy có bao nhiêu hạt cơm ?
Hoặc :
-Bao nhiêu hạt nếp mới làm nên chén rượu này ?
Người con hỏi mãi, hỏi đến những người khoe thần thông phải toát mồ hôi, cứng họng . . .
Người con thường nói với cha :
-Cho dù là thầy bói có tài tiên tri, có khả năng đoán định tốt, xấu, quá khứ, vị lai . . . nhưng nếu xưng có thần thông mà ngay cả vấn đề giản đơn cũng không thể biết, thì làm sao giải quyết những rối rắm khó khăn trong cuộc đời ?
Người cha cho là con ương bướng hay kích bác người. Ngày nọ, người cha đến một thị trấn xa xôi thỉnh về một vị tự xưng là đại thần thông. Ông bảo con trai :
-Nếu như con có thể thử thách và đánh đổ được vị này thì từ rày về sau cha sẽ nghe con .
Rồi họ mở tiệc khoản đãi vị đại thần thông.
Vị đại thần thông này ngồi xuống chưa bao lâu thì ra chiều đắc ý, mỉm miệng cười. Người con hỏi ông ta :
-Thầy cười gì thế ?
Ông đáp :
-Ta vừa nhìn thấy cách đây năm mươi ngàn dặm có một ngọn núi, dưới núi có một dòng suối, cạnh suối có một cây cao, trên cây có một con khỉ đang đùa giỡn, bất ngờ nó vuột tay và rơi tõm xuống suối, tư thế nom rất hài hước, làm ta tức cười.
Người con biết thầy ba hoa nói khoác, nhưng chưa tiện vạch trần. Đợi đến lúc dùng cơm, cậu sai người dọn cho các thực khách những bát cơm được gắp đầy thức ăn thịnh soạn, riêng vị thần thông quảng đại chỉ có một bát cơm trắng vun đầy (để trước mặt ông) mà thôi.
Mùi thức ăn bốc lên thơm nức mũi khiến mọi người đói cồn cào, họ hớn hở cầm đũa và dùng bữa ngon lành. Riêng vị đại thần thông thì bụng tức anh ách, mặt lộ vẻ bất mãn, ngồi yên không chịu ăn.
Người con hỏi :
-Sao tiên sinh không ăn ?
Vị đại thần thông nói :
-Nhà cậu có khi dễ người ta thì cũng vừa phải thôi chứ ! Mời ta tới mà chẳng có chút lòng tôn kính ! Ba`1t ai cũng phủ đầy thức ăn, tại sao bát của ta chỉ toàn cơm trắng ?
Người con nói :
-Ái chà chà ! Con mắt thầy thấy tuốt năm mươi ngàn dặm, nhìn rõ cảnh con khỉ té xuống nước tư thế hài hước ra làm sao, vậy mà . . . bát cơm tôi để ngay trước mặt thầy đây, phía dưới giấu đầy thức ăn thịnh soạn, thầy lại không thấy được là sao ?
Ai nấy đều không nhịn được, phá lên cười ha hả.
Vị đại thần thông xấu hổ, bỏ chạy mất.
Thần thông tuy có đấy nhưng không phải bất kỳ ai cũng tu luyện được. Và cho dẫu có thần thông biết quá khứ vị lai chăng nữa cũng chưa chắc đã thực sự an lạc, giải thoát. Tuy vậy, chúng sanh lại rất tin tưởng, thậm chí sùng bái những người thường khoác lác, khoe khoang về thần thông. Đức Phật thường phân tích về thần thông và xác nhận thần thông tối cao mà con người cần đạt được là Lậu tận thông : sạch hết phiền não. Vì những thần thông khác không giúp con người giải quyết hết những thống khổ trong đời sống, đặc biệt là nỗi khổ lớn : luân hồi sanh tử.
Bởi vậy, đối diện với khổ đau cuộc đời, phương pháp tốt nhất là để tâm lắng lại, bình thản nhìn sự việc một cách khách quan. Khi tâm an tĩnh thì trí sáng, trí sáng thì tìm ra được cách xử lý ổn thoả giúp vượt qua mọi khó khăn. Ngoài ra, nếu muốn sống an lạc thì phải gieo nhân thiện lành, bởi ta không thể nào ăn quả ngọt khi gieo toàn hạt đắng.
Tự mình giải khổ, quyết định đời mình theo cách này sẽ tốt hơn là trông chờ, phó thác vận mệnh mình vào lời những kẻ huênh hoang tiên đoán quá khứ, vị lai nhưng lại không thấy những vật trước mắt và nhất là không có khả năng giải khổ cho chính bản thân họ.
Hạnh Đoan.
Bản chất
Vào một buổi chiều chủ nhật nắng vàng ấm áp tại Oklahoma City, Bobby Lewis, một người cha tuyệt vời, đưa hai đứa con trai nhỏ đi đến sân chơi thiếu nhi. Anh đến quầy bán vé và hỏi :
-Giá vé bao nhiêu vậy anh?
Người bán vé trả lời :
-Ba đô cho anh và ba đô cho trẻ em trên sáu tuổi. Nếu mà bé nào bằng hoặc dưới sáu tuổi thì vào cửa tự do. Các con của anh bao nhiêu tuổi rồi?
Bobby trả lời:
-Bé này 3 tuổi và bé này 7 tuổi, vậy tôi phải trả cho anh 6 đô.
Người bán vé kêu lên:
-Anh vừa trúng xổ số hay sao thế ? Nếu anh nói đứa con lớn của anh 6 tuổi anh có thể tiết kiệm được 3 đô. Tôi đâu có nhận ra được.
Bobby trả lời :
-Đúng, anh không nhận ra được nhưng những đứa trẻ này nhận ra được.
Trong mọi lúc, nhất là những lúc khó khăn, khi mà đạo đức trở nên quan trọng hơn tất cả, bạn hãy làm sao để trở thành gương mẫu cho mỗi người bạn đang cùng làm việc và cùng sống.
Đôi giày
Một hôm, Gandhi bước lên tầu thì một chiếc giày tuột khỏi chân rơi trên đường ray. Ông không thể lấy lại chiếc giày vì lúc ấy tầu đang chuyển bánh. Trong sự ngạc nhiên của những bạn đồng hành, Gandhi điềm tĩnh cởi nốt chiếc giày kia ra ném ngược dọc đường ray rơi xuống gần chiếc giày kia. Khi một hành khách đi cùng hỏi vì sao ông làm như thế thì Gandhi mỉm cười. “Người đàn ông khốn cùng nào đó tìm thấy chiếc giày nằm trên đường ray”, ông đáp, “giờ sẽ có một đôi để đi”.
Quảng An Trần
Tìm Thầy Không Dễ.
Hạnh Đoan
Có một vị quốc vương, một hôm cảm thấy đời sống sao vô vị quá, chẳng còn gì vui thú. Rồi ông nghĩ : Ta nên tìm một vị thầy dạy cho mình cách sống hạnh phúc, tự tại.
Thế là quốc vương xuất cung, đi khắp nơi tìm kiếm một vị thầy ưng ý , nhưng xem ra chẳng có ai làm ông hài lòng. Theo ông thì vị thầy lý tưởng phải là một người có phong cách giải thoát, tự tại, nội tâm lúc nào cũng an lạc. Tiếc thay, hễ các thầy vừa biết rõ ông là vua thì lập tức họ mất bình tĩnh ngay, không còn vẻ an lạc, tự tại vốn có.
Hằng ngày mỗi khi xuất cung vi hành, quốc vương thường gặp vị tu sĩ ăn mặc rách rưới ngồi yên bất động, gương mặt bình thản điểm nụ cười mỉm thâm trầm dưới tàng cây ven đường. Mới đầu, quốc vương chẳng thèm dòm đến ông, nhưng sau một thời gian dài mỏi mắt tìm kiếm mà không có kết quả, chẳng chấm được ai, quốc vương đành ngó vị ẩn sĩ cho đỡ buồn. Bị nụ cười thâm trầm lôi cuốn, vua xuống ngựa, ngỏ ý :
-Này ẩn sĩ, ta đang muốn tìm một vị thầy, ông có chịu làm thầy ta không ?
-Nếu ngài chịu cư xử theo lễ thầy trò thì ta đồng ý !
Quốc vương cảm thấy thích thú, liền rước thầy về cung. Thầy ngụ trong cung điện cao sang, được cung phụng không thiếu thứ gì, tận lực thờ kính thầy, vua hy vọng sẽ được truyền diệu pháp.
Lạ thay, những gì quốc vương hậu đãi, thầy hưởng tất tần tật song chẳng hề dạy quốc vương điều gì, suốt ngày thầy cứ yên lặng, gương mặt bình thản, cười mỉm thâm trầm.
Thời gian trôi qua, quốc vương thất vọng và cảm thấy phiền lòng, hết chịu nổi bèn “tống” thầy ra khỏi vương quốc bằng cách bí mật đưa thầy đến biên ải. Trên đường, thầy vẫn giữ vẻ mặt thản nhiên với nụ cười mỉm thường nhật.
Đến nơi, quốc vương hết nhịn nổi, tuôn ra những bất bình :
-Này lão ăn mày kia ! Hồi xưa, thấy lão ngồi dưới gốc cây ăn mặc rách rưới, ta ngỡ lão là bậc thánh nhân đắc đạo nên mới có bộ dạng khác người. Ai dè khi lão về hoàng cung, lão chỉ biết hưởng thụ xa hoa như ta, chẳng có gì hay ! Trước khi “lặn” mất lão hãy nói xem : Giữa lão và ta có gì khác biệt ? Có bí quyết gì sống an lạc, hạnh phúc hay không ?
Vị thầy lúc này mới “khai khẩu” tạ từ và trả lời :
-Điểm khác biệt giữa Ngài và tôi là thế này, Ngài có một vương quốc, Ngài phải bám víu và sống chết vì nó. Còn tôi, tôi không có vương quốc nên đi đến đâu thì chỗ đó là vương quốc của tôi. Khi tôi ở gốc cây, gốc cây là vương quốc, khi tôi ngụ tại hoàng cung, thì hoàng cung là chỗ của tôi. Thật sự thì hoàng cung hay gốc cây, đối với tôi không có gì khác biệt. Và bí quyết để sống an lạc ư ? Chỉ có tâm tư giải thoát, an tĩnh hoàn toàn mới có thể sống hạnh phúc.
Nói xong thầy bước thẳng và khuất dạng trong rừng sâu.
(Kể theo Truyện ngụ ngôn của Lâm Thanh Huyền.)
Bài học đạo lý :
Khi được người tôn làm thầy, đặt ở vị trí cao, nhận sự kính ngưỡng, quy phục của người thì tất nhiên ta phải xứng đáng bậc thầy, đạo sư, dẫn đường chỉ lối giúp người thoát mê, dứt khổ. Thầy phải có tuệ giác, từ bi, quảng đại, bao dung và sức chịu đựng vô bờ . . . mới giáo hoá thành công. Trách nhiệm của một vị thầy rất lớn, song đó chỉ là những điều kiện lý tưởng mà thầy cần đạt tới. Tuy nhiên trong thực tế, một vị thầy chỉ cần bồi đức lập hạnh, hoàn thiện mình là đã tốt rồi.
Người thầy trong câu chuyện dù minh triết nhưng không chỉ giáo. Hành xử như thầy không dễ kiếm, “khát pháp” như quốc vương cũng khó tìm, chỉ tiếc là vua và thầy chưa đủ duyên. Già như vua gặp được Phật, các bậc Thánh hoặc vị thầy xứng danh, ắt hẳn sẽ được thoả lòng.
Cho nên, tìm được minh sư tuy khó, nhưng hội đủ những phước duyên để thầy giáo hoá cho mình đạt đến viên mãn cực kỳ khó hơn ! Vậy mới hay tìm thầy không dễ !
Chiến thắng !
Mẹ tôi kể cho chúng tôi câu chuyện vào ngày hôm sau.
Kenneth là học sinh tiểu học. Cậu đã rất hào hứng và nôn nóng được tham gia Ngày hội Thể Thao. Trên khán đài, ba mẹ cậu đứng dõi theo đầy hi vọng. Dưới đường thi đấu, Kenneth chạy, và thắng cuộc. Cậu bé rất tự hào về dải ruy băng đeo chéo ngực và những tiếng chúc mừng từ đám đông.
Rồi Kenneth bước vào chặng đua thứ hai. Nhưng ngay ở mức đến, khi đáng lẽ sắp sửa chiến thắng một lần nữa, thì cậu dừng lại, đứng vào một bên đường đua. Ba mẹ cậu sau đó đã hỏi, rất nhẹ nhàng :
-Sao lúc đó con lại làm vậy, Kenneth ? Nếu con tiếp tục chạy, con sẽ thắng nữa mà ?
Kenneth trả lời, hết sức ngây thơ :
-Nhưng mẹ ơi, con đã có một dải ruy băng rồi. Billy thì chưa có dải nào.
Ba viên bi đỏ
Trong suốt những năm khủng hoảng ở cái bang Idaho bé nhỏ nằm phía Đông Nam nước Mỹ này, tôi thường đến cửa hàng nhỏ của ông Miller để mua rau quả tươi. Thực phẩm và tiền bạc đều khan hiếm, nên đôi khi chúng tôi dùng hình thức đổi chác.
Một hôm, khi ông Miller đang bỏ một ít khoai tây vào túi cho tôi, thì tôi nhìn thấy một cậu bé gầy gò, ăn mặc rách rưới nhưng khá sạch sẽ, đang nhìn giỏ đựng quả đậu xanh với ánh mắt đói khát. Tôi trả tiền xong liền đứng lại nghe cuộc nói chuyện giữa ông Miller và cậu bé ăn mặc rách rưới kia.
- Chào Barry, cháu khỏe không ? Tiếng của ông Miller.
- Chào ông Miller, cháu khỏe ạ ! Cháu nghĩ đang ngắm giỏ quả đậu này. Trông chúng ngon thật đấy !
- Chúng ngon lắm, Barry ạ ! Mẹ cháu khỏe không?
- Cũng bình thường ạ? Hình như mẹ cháu đang khỏe lên.
- Tốt! Ta có thể giúp gì cho cháu nào?
- Không ạ, thưa ông. Cháu chỉ ngắm giỏ quả đậu thôi?
- Cháu có muốn lấy một ít không?
- Không ạ, thưa ông. Cháu không có tiền trả đâu.
- Được, cháu có gì để đổi nào?
- Cháu? Tiếng cậu bé ngập ngừng . Cháu chỉ có một viên bi cháu mới chơi thắng được thôi ạ !
- Thế à? Cho ta xem nào!
- Đây, viên đẹp nhất đấy ạ !
- Nó màu xanh à . . . Nhưng ta đang cần viên màu đỏ. Cháu có viên màu đỏ không?
- Cháu không nhớ, để cháu xem.
- Này, cháu đem giỏ đậu này về nhà đi và lần sau mang cho ta viên đỏ nhé !
- Chắc chắn rồi, cảm ơn ông?
Có hai cậu bé nữa như thế ở làng này. Chúng nghèo lắm. Ông Jim nhà tôi cứ thích đổi chác, cho chúng quả đậu, táo, cà chua và những thứ khác. Cứ khi chúng giơ viên bi màu xanh ra, ông ấy lại bảo chúng cầm một ít rau quả về nhà và lần sau mang viên bi màu đỏ cho ông ấy. Vừa để chúng chịu mang rau quả về nhà ngay, vừa để chúng cảm thấy chúng thực sự đã làm gì cho để trao đổi, chứ không phải được cho không. Tôi thấy rất cảm phục ông Miller. Không lâu sau, tôi chuyển nhà, nhưng câu chuyện về ông Miller, người nông dân nhân hậu ấy, thì tôi không bao giờ quên.
Nhiều năm sau, lại có lần tôi quay về làng quê ở Idaho và rất buồn vì trong thời gian ở đó thì nghe tin ông Miller mất. Khi cùng vài người bạn cũ đến nhà ông Miller, tôi thấy ở đó có ba chàng trai trẻ, trông rất thành đạt. Họ đến gần bà Miller, ôm lấy bà và nói những lời an ủi. Rồi từng người một, họ đến bên ông Miller đang nằm đó, chạm những bàn tay nóng ấm của mình vào bàn tay lạnh lẽo của ông Miller và lau nước mắt.
Rồi tôi cũng lại gần bà Miller và nói rằng tôi vẫn nhớ câu chuyện về những viên bi ve ngày nào. Bà Milìer nói:
- Ba chàng trai lúc nãy chính là những cậu bé ngày trước, tôi kể với cô. Họ vừa nói với tôi là họ đã biết ơn ông Jim và những gì ông đã “đổi chác” cho họ biết chừng nào. Và cuối cùng, bây giờ, khi ông Jim không còn đòi họ đổi những viên bi màu nào nữa, thì họ quay lại để tỏ lòng biết ơn ông ấy. Ông Jim luôn nghĩ mình là người giàu có nhất ở bang Idaho này với những viên bi ông có được.
Rất nhẹ nhàng, bà Miller nhấc bàn tay của ông Jim lên. Dưới bàn tay ông là ba viên bi đỏ, sáng bóng và trong veo.
Phép màu nhiệm giá bao nhiêu?
Khi nghe cha mẹ bàn về bệnh tình của người anh, những gì cô bé Tess biết được là người anh mắc bệnh rất nặng và gia đình đã cạn kiệt tiền. Cần có một ca phẫu thuật với chi phí rất mắc mới có thể cứu được anh của bé nhưng ngặt nổi không có ai cho gia đình em vay mượn. Em nghe cha nói trong tuyệt vọng: “Chỉ có phép mầu nhiệm mới có thể cứu được thằng bé thôi”.
Tess vào phòng mình và lôi ra con heo đất với số tiền em đã dành dụm từ bấy lâu nay. Em vội lao ra cửa và chạy thẳng đến một tiệm thuốc tây nổi tiếng ở khu phố. Em đứng trước cửa hiệu một cách kiên nhẫn để chờ đợi sự chú ý của người dược sĩ. Đoạn em dùng chân gõ lên sàn nhà rồi hắng giọng để tạo ra tiếng động . . . nhưng vô ích. Cuối cùng em lấy tay gõ mạnh lên tủ kính và người dược sĩ cất giọng một cách khó chịu: “Cháu muốn gì hả cháu bé? Cháu không thấy ta đang nói chuyện với người anh xa cách mười mấy năm trời hay sau?”. Tess cũng trả lời với vẻ bực bội: “ Cháu cũng muốn nói chuyện với chú về người anh của cháu đây. Anh ấy đang bị bênh và cháu đến đây để mua . . . phép mầu nhiệm”.
“Cháu muốn mua gì?”. Người dược sĩ tròn mắt tỏ vẻ không hiểu.
“Tên của anh cháu là Andrew và anh ấy chịu đựng cái gì đó đau lắm ở trong đầu. Cha cháu nói rằng chỉ có phép mầu nhiệm mới cứu được anh ấy. Vậy phép mầu nhiệm bán với giá bao nhiêu hả bác?”.
“Ở đây không bán thứ đó cháu bé ạ”. Giọng người dược sĩ nhỏ đi.
“Nhưng bác này, cháu có tiền. Cái giá có cao lắm không? Nhưng nếu không đủ cháu sẽ đi mượn thêm” . Giọng Tess như van nài.
Người anh của ông dược sĩ ăn mặc rất đẹp và đứng bên cạnh đó và nghe hết cuộc đối thoại. Ông hỏi Tess: “Thế cháu có bao nhiêu?”. “1 đô và 11 xu và đó là những gì cháu có, nhưng cháu có thể mượn thêm được mà. Bác bán cho cháu nhé?”. Tess trả lời như muốn khóc.
“Ồ, thật trùng hợp”, người đàn ông mỉm cười “1 đô và 11 xu - một số tiền chính xác để mua phép màu nhiệm cho anh cháu”. Sau đó, ông cầm số tiền và nắm chặt bàn tay cô bé đề nghị : “Cháu hãy dẫn ta đến nhà cháu. Ta muốn gặp anh trai và cha mẹ cháu. Để xem ta có phép mầu nhiệm mà cháu cần không nhé!”.
Người đàn ông ấy chính là một bác sĩ giải phẫu rất nổi tiếng. Cuộc phẫu thuật đã rất thành công mà không hề tốn kém bất cứ chi phí nào. Anh trai của Tess dần hồi phục và sống khoẻ mạnh. Cha mẹ Tess vui hơn lúc nào hết. Mẹ em thì thầm: “Thật sự là một phép nhiệm màu. Mẹ không biết mình phải trả bao nhiêu tiền đây? “.
Tess mỉm cười tinh nghịch. Cô bé biết chính xác số tiền đó . . .1 đô và 11 xu . . . cộng thêm sự chân thành của một đứa trẻ.
Cô gái ở cửa hàng bán đĩa CD
Có một chàng trai bị bệnh ung thư. Chàng trai 19 tuổi, nhưng có thể chết bất kỳ lúc nào vì căn bệnh quái ác này. Suốt ngày, chàng trai phải nằm trong nhà, được sự chăm sóc cẩn thận đến nghiêm ngặt của bố mẹ. Do đó, chàng trai luôn mong ước được ra ngoài chơi, dù chỉ một lúc cũng được.
Sau rất nhiều lần năn nỉ, bố mẹ cậu cũng đồng ý. Chàng trai đi dọc con phố - con phố nhà mình mà vô cùng mới mẻ - từ cửa hàng này sang cửa hàng khác. Khi đi qua một cửa hàng bán CD nhạc, chàng trai nhìn qua cửa kính và thấy một cô gái. Cô gái rất xinh đẹp với một nụ cười hiền lành - và chàng trai biết đó là ‘tình yêu từ ánh mắt đầu tiên’.
Chàng trai vào cửa hàng và lại gần cái bàn, nơi cô gái đang ngồi.
Cô gái ngẩng lên hỏi:
- Tôi có thể giúp gì được anh? Cô gái mỉm cười và đó quả là nụ cười đẹp nhất mà chàng trai từng thấy.
- Ơ.. - Chàng trai lúng túng . Tôi muốn mua một CD.
Chàng trai chỉ bừa một cái CD trên giá rồi trả tiền.
- Anh có cần tôi gói lại không . Cô gái hỏi, và lại mỉm cười.
Khi chàng trai gật đầu, cô gái đem chiếc CD vào trong.
Khi cô gái quay lại với chiếc CD đã được gói cẩn thận, chàng trai tần ngần cầm lấy và đi về.
Từ hôm đó, ngày nào chàng trai cũng tới cửa hàng, mua một chiếc CD và cô gái bán hàng lại gói cho anh. Những chiếc CD đó, chàng trai đều đem về nhà và cất ngay vào tủ. Anh rất ngại, không dám hỏi tên hay làm quen với cô gái. Nhưng cuối cùng, mẹ anh cũng phát hiện ra việc này và khuyên anh cứ nên làm quen với cô gái xinh đẹp kia.
Ngày hôm sau, lấy hết can đảm, chàng trai lại đến cửa hàng bán CD. Rồi khi cô gái đem chiếc CD vào trong để gói, anh đã để một mảnh giấy ghi tên và số điện thoại của mình lên bàn. Rồi anh cầm chiếc CD đã được gói như tất cả mọi ngày, đem về.
Vài ngày sau.
‘Reeeeng! . . .’
Mẹ của chàng trai nhấc điện thoại:
- Alô?
Đầu dây bên kia là cô gái ở cửa hàng bán CD. Cô xin gặp chàng trai nhưng bà mẹ oà lên khóc.
- Cháu không biết sao? Nó đã mất rồi . . . hôm qua.
Im lặng một lúc. Cô gái xin lỗi, chia buồn rồi đặt máy.
Chiều hôm ấy, bà mẹ vào phòng cậu con trai. Bà muốn sắp xếp lại quần áo của cậu nên đã mở cửa tủ. Bà sững người khi nhìn thấy hàng chồng, hàng chồng CD được gói bọc cẩn thận chưa hề được mở ra.
Bà mẹ rất ngạc nhiên nên cầm lên một chiếc mở thử ra.
Bên trong hộp giấy bọc là một chiếc CD cùng với một mảnh giấy ghi ‘ Chào anh, anh dễ thương lắm- Jacelyn.’
Bà mẹ mở thêm một chiếc CD nữa.Lại thêm một mảnh giấy ghi:’ Chào anh, anh khỏe không? Mình làm bạn nhé? - Jacelyn.’
Một chiếc CD nữa, một chiếc nữa . . . Trong mỗi chiếc là một mảnh giấy . . .
Trong mỗi cử chỉ đều có thể tiềm ẩn một món quà. Giá như chúng ta đừng ngần ngại mở những món quà mà cuộc sống đem lại.
Con nuôi là gì?
Thầy Debbie dạy lớp 1 đang thảo luận với lớp về một bức tranh gia đình. Trong bức tranh có một cậu bé có màu tóc khác với các thành viên khác trong gia đình. Một cậu học sinh trong lớp cho rằng cậu bé trong tranh chính là con nuôi, cùng lúc đó cô bé tên Jovelynn trong lớp nói rằng: ”Mình biết tất cả về việc nhận làm con nuôi vì mình chính là con nuôi đây”.
Một đứa trẻ khác hỏi: “Thế , nhận con nuôi là gì?”
Jovelynn trả lời: “Nghĩa là mình lớn lên từ trong tim của mẹ mình chứ không phải từ trong bụng mẹ”.
Chiếc túi giấy màu nâu !
Sáng nào, trước khi cha đi làm bé Molly cũng có”nhiệm vụ”đưa cho cha chiếc túi đựng bữa trưa. Nhưng một buổi sáng, ngoài túi đựng thức ăn như mọi khi, Molly còn đưa thêm cho cha một chiếc túi giấy màu nâu. Cái túi đã rách và được chắp vá bởi băng dính cùng những chiếc ghim.
-Cái gì trong cái túi này thế? Cha của Molly hỏi.
-Bố cứ cầm đi ! Molly cười hớn hở.
Không muốn mất thời gian ông Fulghum, Cha của Molly, đem theo cả hai cái túi đến cơ quan. Sau mấy tiếng đồng hồ làm việc, ông ăn trưa và mở chiếc túi của Molly. Trong đó có ba viên sỏi, một con khủng long gãy đuôi và hai cái giấy gói kẹo.
Ăn trưa xong, ông Fulghum bỏ những đồ ăn thừa và cả những thứ lặt vặt của Molly vào thùng rác.
-Con bé toàn giữ những thứ bỏ đi ! Ông lắc đầu lẩm bẩm. Tối hôm đó, Molly chạy lẽo đẽo theo cha và hỏi: “Túi của con đâu,Cha ?”
-Túi nào?
-Túi con đưa cha sáng nay ấy !
-Cha để ở sở làm rồi !
-Con quên không bỏ thiệp vào, Molly ríu rít, Trong túi là những thứ con thích nhất đấy, con nghĩ cha cũng thích chơi với chúng khi cha làm việc mệt quá ! Cha không làm mất cái túi chứ, Cha?
-Tất nhiên là không. Ông Fulghum cố nói dối. Cha chỉ quên không mang về thôi. Mai cha sẽ lấy về !
Molly mừng rỡ đưa “tấm thiệp” cho cha. Đó chỉ là một mảnh giấy gập tư và trong mảnh giấy có ghi : ”I love you,Daddy”.
Chờ lúc Molly ngủ, ông Fulghum vội vã quay trở lại cơ quan. Ông sợ người lao công sẽ dọn những thùng rác và ông sẽ không lấy lại được kho báu của Molly.
Ông Fulghum dốc cả thùng rác ra sàn. Ông nhặt con khủng long gãy đuôi lên, đem rửa sạch khỏi chỗ thức ăn. Cả ba viên sỏi, hai cái giấy gói kẹo. Ông cẩn thận bỏ vào chiếc túi màu nâu, dù túi đã bị rách thêm một ít.
Sáng hôm sau, ông Fulghum bảo Molly kể cho ông nghe về những thứ trong chiếc túi. Mất khá nhiều thời gian, vì mỗi thứ đều có những câu chuyện riêng, giống như những người bạn của Molly vậy. Như hai cái giấy gói kẹo chính là từ những chiếc kẹo sôcôla mà ông đã mua cho Molly, hay con khủng long gãy đuôi là quà của cậu bạn hàng xóm tặng Molly hôm sinh nhật . . .
Tối hôm đó, Molly lại ôm con khủng long gãy đuôi đi ngủ, cùng với Nụ cười !
Cô gái hát lạc điệu
Một đoàn hợp xướng nổi tiếng tổ chức cuộc biểu diễn báo cáo định kỳ thường niên. Khách mời có đủ các giáo sư âm nhạc, các nhà sáng tác, phê bình, các nghệ sĩ nổi tiếng và nhiều chính khách.
Hết chương này nối tiếp chương khác, giọng ca của các ca sĩ cứ hoà quyện lấy nhau, dường như mỗi âm thanh, mỗi lời ca đều phát ra từ chiếc đũa chỉ huy của vị nhạc trưởng - nhịp nhàng - đúng chỗ - đúng lúc - đúng thanh điệu . . . ; thể hiện kết quả của một quá trình luyện tập gian khổ và trình độ diễn xuất cao. Dòng thác âm thanh cùng lời ca kỳ diệu như đưa cả người hát và người nghe vào trạng thái thăng hoa, ngây ngất như trong mơ trong mộng.
Bỗng nhiên, một giọng nữ trong veo cất lên cao vút. Một giọng độc xướng kỳ lạ, nhưng lại xuất hiện ở vị trí không dành cho những người độc xướng! Vị nhạc trưởng ngỡ ngàng, ngẩng đầu; dàn hợp xướng dường như bắt đầu rối loạn . . . May thay, “sự cố” chỉ xảy ra trong một vài giây; ngay lập tức mọi thứ lại trở về quĩ đạo bình thường và buổi biểu diễn đã kết thúc hết sức mỹ mãn. Những tràng vỗ tay như sấm và nghi lễ tặng hoa vừa chấm dứt thì vị nhạc trưởng đã hầm hầm lao vào phía sau sân khấu: “Ai đã hát lạc giọng?”. “Là tôi ạ...?”, một cô gái mới nhập đoàn không lâu đang thút thít ngồi khóc trong sân khấu.
Vừa đúng lúc đó có một vị thượng khách bước vào, ông nhạc trưởng đành phải tươi cười bước ra nghênh tiếp. “Tôi rất muốn gặp cô gái đã hát lạc giọng?”, vị giáo sư âm nhạc nổi tiếng nói. “Đã lâu lắm rồi, tôi chưa được nghe một giọng nữ cao nào đẹp và mượt đến mức như vậy; biết cách huấn luyện, sẽ có được một ca sĩ lớn”.
Thế là cô gái hát lạc giọng bị cả đoàn chỉ trích đó đã trở thành học trò của vị giáo sư nổi tiếng. Quả nhiên, sau vài năm, “cô gái lọ lem” đó đã trở thành một ngôi sao lớn trong giới thanh nhạc.
Một số người chỉ nhìn thấy cái sai của những người khác. Có người lại nhìn thấy được cả ưu điểm trong những sai lầm. Để có thể trở thành loại người thứ hai, cần phải vừa có lòng bao dung vừa có trí tuệ.
Điều đó rồi cũng sẽ qua
Một ngày nọ, vua Salomon bỗng muốn làm bẽ mặt Benaiah, một cận thần thân tín của mình. Vua bèn nói với ông : “Benaiah này, ta muốn ông mang về cho ta một chiếc vòng để đeo trong ngày lễ và ta cho ông sáu tháng để tìm chiếc vòng đó”.
Benaiah trả lời : “Nếu có một thứ gì đó tồn tại trên đời này, thưa đức vua, tôi sẽ tìm thấy nó và mang về cho ngài, nhưng chắc là chiếc vòng ấy phải có gì đặc biệt?”.
Nhà vua đáp: “Nó có những sức mạnh kỳ diệu. Nếu kẻ nào đang vui nhìn vào nó sẽ thấy buồn, và nếu ai đang buồn nhìn vào nó sẽ thấy vui”.
Vua Salomon biết rằng sẽ không đời nào có một chiếc vòng như thế tồn tại trên thế gian này, nhưng ông muốn cho người cận thần của mình nếm một chút bẽ bàng.
Mùa xuân trôi qua, mùa hạ đến nhưng Benaiah vẫn chưa có một ý tưởng nào để tìm ra một chiếc vòng như thế.
Vào đêm trước ngày lễ, ông quyết định lang thang đến một trong những nơi nghèo nhất của Jerusalem. Ông đi ngang qua một người bán hàng rong đang bày bán những món hàng trên một tấm bạt tồi tàn. Benaiah dừng chân lại hỏi: “Có bao giờ ông nghe nói về một chiếc vòng kỳ diệu làm cho người hạnh phúc đeo nó quên đi niềm vui sướng và người đau khổ đeo nó quên đi nỗi buồn không?”.
Người bán hàng lấy từ tấm bạt lên một chiếc vòng giản dị có khắc một dòng chữ. Khi Benaiah đọc dòng chữ trên đó, khuôn mặt ông rạng rỡ một nụ cười.
Đêm đó toàn thành phố hân hoan, tưng bừng đón mừng lễ hội.
“Nào, ông bạn của ta - vua Salomon hỏi - ông đã tìm thấy điều ta yêu cầu chưa?”. Tất cả cận thần có mặt đều cười lớn và cả chính vua Salomon cũng cười.
Trước sự ngạc nhiên của mọi người, Benaiah đưa chiếc vòng ra và nói: “Nó đây, thưa đức vua”. Khi vua Salomon đọc dòng chữ, nụ cười biến mất trên khuôn mặt vua. Trên chiếc vòng đó có khắc dòng chữ: “Điều đó rồi cũng sẽ qua “.
Vào chính giây phút ấy, vua Salomon nhận ra rằng tất thảy những sự khôn ngoan, vương giả và quyền uy của ông đều là phù du bởi vì một ngày nào đó ông cũng chỉ là cát bụi . . .
Bài diễn văn cãi tại tòa án
hay nhất thiên niên kỷ
Diễn văn của luật sư Georger Graham Vest tại một phiên toà xét xử vụ kiện người hàng xóm làm chết con chó của thân chủ, được phóng viên Wiliam Safire của Báo The New York Times bình chọn là hay nhất trong tất cả các bài diễn văn, lời tựa trên thế giới trong khoảng 1000 năm qua.
Thưa quý ngài bội thẩm,
Người bạn tốt nhất mà con người có được trên thế giới này có thể có một ngày nào đó hoá ra kẻ thù quay ra chống lại ta. Con cái mà ta nuôi dưỡng với tình thương yêu hết mực rồi có thể là một lũ vô ơn. Những người gần gũi, thân thiết ta nhất, những người gởi gắm hạnh phúc và danh dự có thể trở thành kẻ phản bội, phụ bạc lòng tin cậy và sự trung thành. Tiền bạc mà con người có rồi sẽ mất đi. Nó mất đi đúng vào lúc ta cần nó nhất. Tiếng tăm của con người cũng có thể tiêu tan trong phút chốc bởi một hành động dại một giờ. Những kẻ phủ phục tôn vinh ta khi ta thành đạt có thể sẽ là những kẻ đầu tiên ném đá vào ta khi ta lỡ vận. Duy có một người bạn không bao giờ rời bỏ ta, không bao giờ tỏ ra vô ơn hay trắc trở, đó là con chó của ta.
Con chó của ta luôn ở bên cạnh ta trong phú quí cũng như lúc bần hàn, khi khỏe mạnh cũng như lúc ốm đau. Nó ngủ yên trên nền đất lạnh, dù gió đông cắt da cắt thịt hay bão tuyết vùi miễn sao được kề cận bên chủ là được. Nó hôn bàn tay ta dù khi ta không còn thức ăn gì cho nó. Nó liếm vết thương của ta và những trầy xước mà ta hứng chịu khi va chạm với cuộc đời tàn bạo này. Nó canh giấc ngủ của ta như thể ta là ông hoàng, dù ta có là một gã ăn mày. Dù khi ta đã tán gia bại sản, thân tàn danh liệt vẫn còn con chó trung thành với tình yêu nó dành cho ta như thái dương trên bầu trời. Nếu chẳng may số phận đá ta ra rìa xã hội, không bạn bè, vô gia cư thì con chó trung thành chỉ xin ta một ân huệ là cho nó được đồng hành, cho nó được là kẻ bảo vệ ta trước hiểm nguy, giúp ta chống lại kẻ thù.
Và một khi trò đời hạ màn, thần chết đến rước linh hồn ta đi, để lại thân xác ta trong lòng đất lạnh, thì khi ấy, khi tất cả thân bằng quyết thuộc đã phủi tay sau nắm đất cuối cùng và quay đi để sống tiếp cuộc đời của họ, thì khi ấy vẫn còn bên nấm mồ ta con chó cao thượng của ta nằm gục mõm giữa hai chân trước, đôi mắt ướt buồn vẫn mở to cảnh giác, trung thành và trung thực ngay cả khi ta đã chết rồi.
Bánh nào ngon
Một người ăn mày lang thang đã hơn ngày mà chưa kiếm được miếng ăn. Đến một đầu phố nọ, ông ta ngửi thấy mùi bánh mì thơm bốc ra từ một ngôi nhà. Người ăn mày gặp may. Đây chính là lò bánh mì. “Ngài làm ơn cho kẻ bất hạnh này xin một miếng bánh ăn cho đỡ đói lòng”, người ăn mày năn nỉ ông chủ lò bánh mì. “Ồ, ngươi là kẻ khôn ngoan. Ngươi đến đúng chỗ rồi đó - chủ lò bánh mì thao thao nói – Làm sao ngươi biết lò bánh của ta mà tới? Ai chỉ cho ngươi? Chắc chắn là bánh của ta rất ngon nên ai ai cũng biết. Ta tiết lộ cho ngươi một bí mật : Bánh của ta làm theo công thức gia truyền từ cụ tổ bảy đời kia đấy. Nó được ghi chép trong cuốn sách bìa da màu đỏ nằm trên kệ kia kìa. Ngươi thấy không?”. Người ăn mày cố gượng cười: “Dạ thấy, nhưng thưa ngài, con đói lắm. Hơn ngày nay con chưa có tí gì trong bụng, con xin ngài làm phước. Con chỉ xin một mẩu bánh mì thôi ạ”.
Không chú ý tới nét mặt nhăn nhó của người ăn mày, ông chủ tiếp tục rao giảng về bí quyết nhào bột. Ông ta kéo người ăn mày vào sát lò nướng. Từng mẻ bánh nóng giòn bốc mùi thơm phức. “Ngươi thấy chưa? Bánh mới đẹp, mới thơm làm sao. Nướng bánh là một nghệ thuật. Để có bánh ngon, bánh đẹp cần phải có lòng yêu nghề”.
“Nhưng thưa ông, con đói. Con xin ông…”, người ăn mày lắp bắp.
“Ngươi phải hiểu: Con người cần rất nhiều thứ, nhưng bánh mì là cái cốt yếu nhất. Không ai có thể sống được nếu thiếu bánh mì…”,
“Chính thế con mới phải gõ cửa ông…”, người ăn mày rụt rè nói chen.
“Khoan, nghe ta nói cái đã, nhưng không phải ai cũng có đạo đức như ta. Ra đây”.
Ông chủ lò bánh mì kéo người ăn mày ra cửa rồi nói tiếp:
“Ngươi thấy không, cả dảy phố này, nhà nào cũng có lò nướng bánh mì. Nhưng chớ tin họ. Nhà thì pha thêm bột xấu, nhà thì cho nhiều muối quá, kẻ thì nướng quá lửa. Thế mà chúng nó dám bảo cái chúng làm ra là bánh mì!”.
“Thưa ngài, con chỉ xin một miếng bánh để ăn thôi ạ”, người ăn mày mệt mỏi nhắc lại.
“Nhưng điều ta sắp kể với ngươi mới là quan trọng nhất”, ông chủ lò bánh vung tay nói tiếp. Bất chợt, người ăn mày quay lưng lầm lũi bỏ đi.
“Này, ngươi không thích ăn bánh mì của ta sao? Bánh mì ngon nhất xứ này được làm theo công thức gia truyền từ bảy đời…”, ông chủ lò bánh mì nói với theo.
“Không, thưa ngài. Bánh mì ở chỗ khác có lẽ mặn hơn, làm bằng thứ bột xấu hơn, bị cháy sém nhưng nó làm tôi no bụng. Ở chỗ ngài, chỉ tai tôi no thôi”.
Bài kiểm tra nhớ đời
Khi tôi đang còn học năm thứ hai trường nữ hộ sinh, một ngày nọ, vị giáo sư già cho chúng tôi làm bài kiểm tra. Việc đầu tiên của tôi là lướt mắt qua toàn bộ các câu hỏi. Không có câu nào quá khó, vì tôi vốn là cô học trò thông minh! Duy chỉ có câu hỏi cuối cùng làm tôi bật ngửa người : Chị hãy cho biết tên của bà lao công trong trường ta?
Trời đất ạ! Bà lao công thì có liên quan gì tới chuyện đỡ đẻ và chăm sóc sản phụ kia chứ? Ngày nào tôi chẳng gặp bà. Bà ấy già lắm rồi, chẳng biết là 60 hay đã 70 tuổi. Mặt nhăn nheo, dáng vẻ khắc khổ, bà hầu như không bao giờ nói tiếng nào, suốt ngày chỉ cắm cúi cầm giẻ, cầm chổi lau nhà. Nhiều khi cả bọn chúng tôi vừa bô bô tán chuyện vừa đi trên hành lang, không thèm tránh lối cho bà lão đang còng lưng lau sàn nhà. Trông bà lão vội vàng né sang một bên, có lúc lòng tôi cũng cảm thấy hơi nao nao. Một lần nọ, mải chạy, một cô bạn tôi vấp té đánh đổ bịch sữa đang uống dở ra sàn. Bà lão tội nghiệp vội lắp bắp: “Các cô để đấy cho già. Các cô vội, cứ làm việc của mình đi. Đây là việc của già mà!”.
Chỉ có thế thôi thì làm sao tôi biết họ và tên của bà? Mà có biết cũng chẳng để làm gì. Bà ấy chẳng qua chỉ như cái bóng âm thầm bên lề cuộc sống sôi động đang cuốn hút lũ sinh viên ồn ào chúng tôi. Tôi quyết định để trống câu trả lời. Cũng không có gì là quan trọng. Miễn tôi trả lời xuất sắc những câu hỏi liên quan tới chuyên môn là được.
Vài ngày sau, vị giáo sư trả lại bài kiểm tra. Ông chậm rãi nói: “Đa số các em đều viết được. Nhưng tôi lo ngại rằng nếu cứ cái đà này khi tốt nghiệp lớp ta sẽ cho ra trường toàn là những . . . người máy. Đó sẽ là một thảm họa!”.
Phía dưới, lũ học trò chúng tôi lao xao, không hiểu thầy muốn nói gì.
“Nghề của các em là chăm sóc, giúp đỡ những người phụ nữ trong những giờ phút đau đớn nhất và cũng là hạnh phúc nhất trong đời. Các em là thiên thần hộ mệnh cho những sinh linh mới. Nỗi đau của họ cũng phải là nỗi đau của chính các em. Nghề nghiệp của các em cần những con người nhạy cảm, biết quan tâm, nâng đỡ số phận của mọi người, dù họ là mệnh phụ phu nhân, một ngôi sao hay chỉ là một bà quét rác. Một bà lão cần mẫn phục vụ các em năm này qua năm khác mà các em cũng không thèm biết tên, không biết hoàn cảnh của bà ấy là một điều đáng để các em cần suy nghĩ. Vì thế, thầy cho rằng toàn bộ số bài kiểm tra của lớp ta đều không đạt yêu cầu”.
Một bài học nhớ đời đối với tôi! Sau này, tôi dò hỏi và biết được tên của bà lão là Dorothy. Bà đã làm việc ở đây gần nửa thế kỷ, từ lúc còn con gái. Hai người con trai của bà đã hy sinh trong chiến tranh. Bà ấy có quyền nghỉ hưu nhưng vẫn xin ở lại làm việc không lương.
Bobsy
Người mẹ trẻ 30 tuổi nhìn xuống đứa con đang bị bệnh bạch cầu đến giai đoạn chót. Mặc dù trái tim người mẹ tràn ngập đau khổ, cô vẫn có sự quả quyết mạnh mẽ. Như mọi cha mẹ khác, cô rất muốn con mình lớn lên và đạt được mọi ước mơ của mình. Bây giờ thì chuyện đó không thể có được nữa. Bệnh bạch cầu không cho phép con cô thực hiện ước mơ của mình. Nhưng cô vẫn muốn tạo ra cho con một điều kỳ diệu. Cô nắm lấy tay con và hỏi : “Bobsy, con có bao giờ nghĩ đến chuyện sẽ trở thành gì khi lớn lên không? Con có mơ ước về điều mà con sẽ làm trong cuộc đời mình?”
“Mẹ à, con vẫn ước mơ sẽ trở thành lính cứu hỏa khi con lớn lên.”
Người mẹ mỉm cười : “Hãy chờ xem chúng ta có thể làm cho ước mơ đó trở thành sự thật hay không.” Trong ngày hôm đó, cô đi đến đội cứu hoả khu vực cua Phoenix, Arizona. Ở đó cô gặp Lính cứu hoả Bob, người có trái tim lớn hơn cả thành phố Phoenix. Cô giải thích ước mơ của con mình và xin cho con cô được đi một vòng trên xe cứu hỏa.
Người lính cứu hỏa Bob nói “Xem này, chúng tôi có thể làm hơn thế nữa. Nếu cô có thể chuẩn bị cho con cô vào 7 giờ sáng thứ Tư, chúng tôi sẽ cho cậu bé trở thành lính cứu hỏa danh dự của cả ngày. Cậu bé có thể tới trạm cứu hỏa, ăn cùng chúng tôi, chạy cùng chúng tôi tới tất cả các vụ cứu hoả trong ngày. Và nếu cô cho chúng tôi kích cỡ của con cô, chúng tôi sẽ làm cho cậu bé một bộ đồng phục lính cứu hỏa dành riêng cho cậu, với một cái mũ cứu hỏa - không phải là đồ chơi - với phù hiệu lính cứu hoả Phoenix trên đó, một bộ áo nhựa màu vàng như của chúng tôi và ủng cao su. Tất cả đều được làm tại Phoenix nên chúng ta sẽ có rất nhanh thôi.”
Ba ngày sau người lính cứu hỏa Bob đến đón Bobsy, mặc cho cậu bộ đồng phục của lính cứu hỏa và đưa cậu từ giường bệnh đến chiếc xe cứu hỏa đang chờ. Bobsy ngồi ở ghế sau và giúp lái chiếc xe về đến trạm. Cậu bé cảm thấy như đang ở trên thiên đường. Hôm đó có ba cú điện thoại gọi cứu hỏa và Bobsy tham dự cả ba cuộc xuất quân. Cậu đi trên một chiếc xe cứu hoả khác, một chiếc xe y tế, và cả trên chiếc xe của Chỉ huy lính cứu hỏa. Cậu còn được đài truyền hình địa phương quay phim.
Với giấc mơ trở thành sự thật, với tất cả tình yêu và sự quan tâm săn sóc mà mọi người dành cho Bobsy vô cùng xúc động và hạnh phúc đến mức mà cậu đã sống thêm được ba tháng - một thời gian dài hơn mức tất cả các bác sĩ tiên đoán.
Một đêm nọ, tất cả các dấu hiệu sự sống của cậu bé tụt xuống một cách đột ngột. Người y tá trưởng nhớ đến ngày mà Bobsy sống như một lính cứu hỏa, cô gọi cho chỉ huy lính cứu hỏa và hỏi có thể gửi một người lính cứu hỏa trong đồng phục đến với cậu trong lúc này hay không. Người chỉ huy trả lời, “Chúng tôi sẽ có mặt ở đó trong vòng 5 phút nữa. Cô có thể giúp chúng tôi một việc được không? Khi cô nghe tiếng và ánh chớp phát ra từ xe cứu hỏa chạy đến thì xin cô hãy thông báo qua radio cho toàn bệnh viện nghe rằng đó không phải là có báo động cháy. Đó chỉ là đội cứu hỏa đến để chia tay với một trong trong những thành viên tuyệt vời nhất của mình. Và xin cô hãy mở cửa sổ của phòng cậu bé. Xin cám ơn”.
Khoảng 5 phút sau, chiếc xe cứu hỏa với cả móc và thang chạy đến bệnh viện. Dựng cái thang lên đến cửa sổ phòng Bobsy ở lầu 3, 14 lính cứu hỏa nam và 2 lính cứu hỏa nữ trèo qua thang vào phòng của Bobsy. Được mẹ cậu bé cho phép, họ ôm cậu và nói với cậu bé rằng họ rất yêu cậu.
Với hơi thở cuối cùng trong cuộc đời mình, Bobsy nhìn lên người chỉ huy và nói : “Thưa chỉ huy, vậy cháu là lính cứu hỏa thật sự phải không?”
“Phải, cháu là lính cứu hỏa thật sự.” người chỉ huy nói.
Với những lời nói đó, Bobsy mỉm cười và nhắm mắt lại mãi mãi.
Cô gái có một bông hồng trên áo
John Blanchard rời khỏi băng ghế, chăm chú nhìn dòng người đang ra khỏi nhà ga xe lửa trung tâm thành phố. Anh đang chờ người con gái mà trái tim đã rất quen thuộc với anh nhưng khuôn mặt thì anh chưa từng gặp, một cô gái với một bông hoa hồng.
13 tháng trước đây trong một thư viện ở Florida, khi nhấc một cuốn sách ra khỏi kệ anh bỗng cảm thấy bị lôi cuốn không phải vì nội dung cuốn sách mà vì những dòng chữ viết bằng bút chì bên lề cuốn sách. Những hàng chữ mềm mại với nội dung chứa đựng một tâm hồn sâu sắc và một trí tuệ sáng suốt. Bên trong bìa cuốn sách, nơi ghi tên người mượn, anh tìm ra tên chủ nhân của hàng chữ, đó là Hollis Maynell. Cô gái sống ở thành phố New York.
Sau đó anh viết cho cô gái một bức thư tự giới thiệu mình và mong cô trả lời, nhưng ngay hôm sau anh đã phải lên tàu ra nước ngoài tham gia cuộc Chiến tranh Thế giới thứ hai. Trong vòng một năm và một tháng sau đó hai người dần dần tìm hiểu nhau qua thư từ. Mỗi lá thư là một hạt giống được gieo vào trái tim nồng cháy. Một mối tình nảy nở. Anh đề nghị cô gái gửi cho mình một tấm hình nhưng cô từ chối. Cô cho rằng nếu chàng thực lòng thì diện mạo của cô đâu có quan trọng gì.
Cuối cùng đến ngày anh từ châu Âu trở về, họ hẹn gặp nhau lần đầu tại nhà ga trung tâm thành phố New York. Cô gái viết: “Anh sẽ nhận ra em là người có một bông hồng trên ve áo”.
Khi đó, tôi thấy một người con gái bước lại phía tôi, cô ấy có một thân hình mảnh mai thon thả. Những cuộn tóc vàng loăn xoăn bên vành tai nhỏ nhắn. Cặp mắt cô ấy xanh như những đoá hoa. Đôi môi và cằm cô ta có nét cương quyết nhưng rất dịu dàng. Trong chiếc áo vét màu xanh nhạt cô gái trông như mùa xuân đang tới. Tôi tiến lại phía cô gái và hoàn toàn không để ý là cô ấy không có bông hồng trên ve áo. Khi tôi bước tới, cô gái nở một nụ cười dịu dàng hấp dẫn trên vành môi và ánh mắt trìu mến dường như muốn làm quen với tôi. Khi ấy gần như không tự chủ được, tôi bước thêm một bước nữa lại phía cô gái, và đúng lúc ấy tôi nhìn thấy Hollis Maynell với bông hồng đứng ngay sau cô ấy. Đó là một người phụ nữ đã ngoài 40 tuổi. Bà ta có mái tóc màu xám bên trong một chiếc mũ đã cũ. Bà ta có một thân hình nặng nề, đôi chân mập mạp trong đôi giày đế thấp. Khi đó cô gái trong chiếc áo màu xanh vội vã bước đi. Tôi có cảm giác dường như con người tôi lúc đó bị chia làm hai, một nửa đang muốn được đi theo cô gái và nửa còn lại hướng tới người đàn bà mà tâm hồn đã thực sự chinh phục tôi. Và bà ta đứng đó, khuôn mặt béo tốt với làn da nhợt nhạt nhưng hiền lành và nhạy cảm. Khi đó bỗng nhiên tôi không còn lưỡng lự nữa. Tay tôi nắm chặt cuốn sách nhỏ cũ kỹ giống như cuốn sách trong thư viện trước đây để cô gái có thể nhận ra tôi.
Đây không phải là tình yêu nhưng là một cái gì đó rất đáng quý, một cái gì đó thậm chí có thể còn hơn cả tình yêu, một tình bạn mà tôi luôn luôn và mãi mãi biết ơn. Tôi đứng thẳng chào người đàn bà, chìa cuốn sách ra và nói, mặc dù khi nói tôi cảm thấy giọng mình nghẹn lại vì cay đắng và thất vọng: “Tôi là trung uý John Blanchard và xin phép được hỏi đây chắc là cô Maynell? Tôi rất vui mừng là cô đã đến đây gặp tôi hôm nay. Tôi muốn mời cô dùng cơm tối có được không?”.
Người phụ nữ nở một nụ cười bao dung và trả lời: “Ta không biết việc này như thế nào bạn trẻ ạ, nhưng cô gái trẻ mặc chiếc áo vét màu xanh vừa đi kia đã năn nỉ ta đeo đoá hoa hồng này trên ve áo. Cô ấy nói nếu anh có mời ta đi ăn tối thì nói rằng cô ấy đang đợi anh ở nhà hàng lớn bên kia đường. Cô ấy nói đây là một cuộc thử nghiệm gì đó.”
Người ta chỉ có thể nhận ra bản chất thật sự của trái tim khi phải đối mặt với những điều không như ý muốn.
Đừng ngại ngùng
Hồi đó tôi học tại một trường Trung học Vienne. Anh bạn giỏi nhất lớp là một học sinh mười sáu tuổi có thiên bẩm đặc biệt về mọi phương diện. Rất siêng năng, có cao vọng, rất có giáo dục, đẹp trai, thông minh xuất chúng; hết thảy chúng tôi đều công nhận rằng tiền đồ của anh rực rỡ. Vì vậy chúng tôi mượn tên nhà ngoại giao đại tài Metternich để đặt biệt hiệu cho anh. Có lẽ người ta có thể trách anh một điều là ăn bận bảnh bao quá lúc nào cũng rất tề chỉnh : quần luôn luôn có nếp mới ủi, cà vạt thắt rất có nghệ thuật.
Những ngày mưa, người tài xế của thân phụ anh lái một chiếc xe lộng lẫy đưa đón anh. Nhưng mặc dầu sống xa hoa như vậy, anh vẫn rất giản dị, nên chúng tôi đều quý mến anh.
Một buổi sáng, mọi người ngạc nhiên thấy chỗ ngồi của "Metternich" bỏ trống. Tới bữa trưa người ta mới cho hay tại sao. Thân phụ anh là một nhà lý tài ai cũng biết tiếng mới bị bắt đêm trước. Công việc làm ăn của ông là một vụ lường gạt đại qui mô. Chỉ hôm trước hôm sau mấy ngàn người nghèo khó cực khổ ki cóp trong bao lâu bỗng bị bóc lột hết ráo. Các báo hàng ngày luôn luôn ham bêu xấu thiên hạ, đăng những tít to tướng làm rùm beng vụ đó lên, in hình thủ phạm và cả hình gia đình thủ phạm nữa trong bài tường thuật.
Chúng tôi hiểu anh bạn đáng thương đó tại sao nghỉ học rồi. Nhục nhã quá, anh không dám nhìn mặt chúng tôi. Chỗ ngồi của "Metternich" bỏ trống hai tuần lễ, trong hai tuần đó báo chí vẫn tiếp tục rêu rao, bêu xấu.
Rồi tới tuần lễ thứ ba, một buổi sáng, cánh cửa mở ra và "Metternich" bước vô. Anh cúi đầu xuống, đi lại chỗ ngồi, mở sách ra và gục đầu đọc liền. Suốt hai giờ học anh không hề ngước mắt lên tới một lần.
Nghe tiếng kiểng, chúng tôi ào ào túa ra hành lang để nghỉ giải lao . "Metternich " ra trước chúng tôi, quay lưng lại chúng tôi và đứng trước một cửa sổ, cô độc, bề ngoài có vẻ chăm chú ngó kẻ qua người lại ở ngoài đường. Chúng tôi biết rằng anh làm cái bộ dữ dằn, "nan du " như vậy chỉ để tránh cặp mắt của chúng tôi thôi. Anh đứng một mình trong cái xó của anh.
Chúng tôi bỗng nhiên mất vui, thấu nỗi cô độc ghê gớm của anh . Chúng tôi biết rõ rằng anh bạn đáng thương đó đương chờ một cử chỉ thân ái của chúng tôi. Nhưng chúng tôi rụt rè, ngại ngùng không tiến lại gần anh, không biết tỏ thiện cảm với anh cách nào để khỏi chạm lòng" tự trọng " của anh. Chúng tôi hèn nhát chần chừ hoài, không dám bước bước đầu.
Trong khi còn ngại ngùng do dự không biết nên có thái độ ra sao thì kiểng lại đánh, thế là hết giờ ra chơi . Nghe tiếng kiểng, "Metternich" quay phắt lại, chẳng nhìn chúng tôi, vội vã về lớp. Nhăn nhó, bực tức, môi nhợt nhạt, anh ngồi vào bàn rồi lại cúi gầm đầu vào cuốn sách.
Tan học buổi sáng, anh hấp tấp ra về liền. Chúng tôi cảm thấy khó chịu về sự nhút nhát của mình, cùng nhau tìm cách cứu vãn. Nhưng đã quá trễ. Cơ hội đã bỏ lỡ, không còn trở lại nữa. Sáng hôm sau chỗ ngồi của anh bạn chúng tôi lại bỏ trống. Chúng tôi kêu điện thoại về nhà anh thì hay rằng anh không có nhà. Tội nghiệp anh, ở trường về, anh thưa với má rằng anh bỏ học. Và ngay tối hôm đó anh rời kinh đô (tức Vienne), lại một thị trấn nhỏ, xin vô làm công trong một nhà bán thuốc. Từ đó chúng tôi không gặp lại anh nữa.
Nếu anh tiếp tục học thì chắc chắn anh em không ai theo kịp được anh. Hiển nhiên là tại chúng tôi ngần ngại, do dự, không biết ngỏ ít lời an ủi anh mà lúc đó anh rất cần, nên anh mới phá ngang làm hại tương lai của anh như vậy. Buổi sáng đó, chỉ cần một lời thiện cảm, một cử chỉ âu yếm thôi là anh đủ sức để vượt khỏi cảnh khốn khổ của anh. Mà chúng tôi không tỏ chút tình thân với anh, an ủi anh, không phải là tại chúng tôi thiếu hiểu biết, hoặc lãnh đạm, hoặc xấu bụng. Không ! Chỉ tại chúng tôi thiếu can đảm. Rất nhiều khi chúng ta thiếu can đảm nên không tìm được lời thích hợp để nói đúng lúc. Đành rằng, lại hỏi chuyện một người lòng tự trọng đương bị thương tổn kịch liệt, là một việc khó khăn, tế nhị đấy . Nhưng kinh nghiệm lần đó đã cho tôi bài học là đừng bao giờ do dự, cứ nên theo xúc động đầu tiên của lòng mà lại cứu giúp một người đau khổ vì chính trong những lúc gian nan của người, một lời nói, một cử chỉ của ta mới có giá trị nhất.
Stephan Zweig
Đôi cánh thiên thần
Ngày xưa, một cậu bé luôn mặc cảm tự ti vì trên lưng cậu có 2 vết thẹo rất rõ. Nó kéo dài từ bả vai xuống đến tận phần eo với phần da nhăn nhúm. Vì thế, cậu bé luôn cảm thấy xấu hổ với chính bản thân mình.
Ngày ngày đi học, cậu đều rất sợ bị bạn bè phát hiện. Vào giờ thể dục, khi ai nấy háo hức thay chiếc áo thể dục trắng tinh không đẫm chút mồ hôi thì cậu bé lại trốn vào một góc sân, nhanh chóng thay áo để mọi người không nhìn thấy gì ở lưng cậu.
Thời gian dài trôi qua, rồi cái gì đến cũng phải đến. “Ôi, gớm quá!”, “A…quái vật!” , “Ôi, thật khủng khiếp!” Những lời vô tâm ấy đã làm đau lòng người bạn nhỏ của chúng ta. Cậu vừa khóc vừa chạy vào trong lớp, trốn tránh tất cả. Từ đó, cậu bé không bao giờ bước ra khỏi lớp và đặc biệt cậu không học môn thể dục nữa.
Sau sự việc này, mẹ cậu bé dịu dàng nắm tay cậu đến gặp cô chủ nhiệm. Cô là một nữ giáo viên đôn hậu. Người mẹ kể rằng khi mới sinh, cậu con trai đã mắc bệnh nặng, gần như mất hết hy vọng nhưng gia đình không đành lòng bỏ rơi và quyết cứu cho được đứa con. Qua cuộc giải phẩu vô cùng khó khăn vất vả, đứa con đã được cứu nhưng từ đó để lại hai vết thẹo lớn trên lưng. Nói đến đây, người mẹ run run bật khóc.
Đến giờ thể dục ngày hôm sau, cậu bé xuất hiện ở một góc tối với chiếc áo thể dục. Các bạn nhỏ khác thấy thế và lại ngây thơ thốt lên những lời vô tâm: “Ôi, thật đáng sợ!” , “…trên lưng cậu ấy có 2 con trùng to lắm”. Ngay lúc ấy, cô giáo vô tình đi ngang, các bạn nhỏ vây quanh lấy cô và nói về vết thẹo.
Cô giáo tiến gần đến cậu bé, đặt nhẹ tay lên bờ vai gầy nhỏ ấy, mỉm cười nói: “Lúc trước cô định kể cho các con nghe một câu chuyện nhưng xem ra, cô phải kể ngay lúc này.” Các bạn trẻ lại vây quanh lấy cô. Cô giáo nhẹ nhàng kéo chiếc áo của cậu bé lên làm lộ rõ hai vết thẹo lớn. “Đây là một truyền thuyết. Ngày xưa, các thiên thần trên trời đã bay xuống và biến thân thành các bạn nhỏ như chúng ta đây. Tất nhiên có thiên thần nhanh nhẹn đã kịp tháo gở đôi cánh của mình nhưng cũng có thiên thần hơi chậm, không kịp tháo hết đôi cánh của mình và để lại hai vết như thế này.”
“Vậy đó là cánh của thiên thần hả cô?”
“Đúng đó!” - cô giáo mỉm cười.
Bỗng một bạn gái lên tiếng: “Thưa cô, chúng con có thể sờ chúng không?” Từ nãy giờ cậu bé cứ đứng ngẩn người ra, cậu lại khóc. Cô lại cười và nói: “Chúng ta phải xin phép vị thiên thần nhỏ của chúng ta chứ?” Lặng người một hồi, cậu bé lấy lại bình tĩnh đáp:
“Vâng, được ạ!”
Các bạn nhỏ vây quanh lấy cậu, hết bạn này đến bạn khác sờ vào “đôi cánh” ấy. “Ôi, tuyệt thật, con đã sờ được cánh của thiên thần rồi!”.
Năm tháng dần trôi, người bạn nhỏ của chúng ta đã lớn hơn nhiều, cậu vẫn thầm cảm ơn cô giáo đã đem lại cho cậu một niềm tin mới, một nghị lực mới. Lên cấp ba, cậu mạnh dạn tham gia giải bơi lội cấp thành phố và đạt ngôi Vô địch. Cậu đã dũng cảm chọn môn bơi lội bởi cậu tin rằng vết thẹo trên lưng chính là món quà cô giáo năm xưa dành tặng với tất cả sự yêu thương - đôi cánh thiên thần.
Tình yêu trong mắt trẻ thơ
Cách nhìn của trẻ em đối với câu hỏi: "Như thế nào là yêu?" tuy mộc mạc và ngây thơ nhưng xem ra rộng hơn, sâu sắc hơn người lớn. Nào! chúng ta hãy xem qua một số câu các em trả lời phỏng vấn các chuyên gia tâm lý học.
* "Tình yêu là khi bà bị đau thấp khớp không thể cúi người xuống sơn móng chân, thế nhưng bà lại rất thích việc đó và thế là ông ngoại giúp bà ngọai, mặc dù ông cũng bị phong thấp ".
* "Cháu yêu chị lắm vì thế nếu chị ấy lỡ làm cháu ngã, cháu sẽ cắn môi thật chặt để không khóc. Nếu cháu khóc chị ấy sẽ buồn lắm".
* "Tình yêu? Đấy là lúc cháu mệt lắm nhưng trông thấy bạn ấy là cháu lại muốn cười".
* "Chắc chắn là mẹ cháu yêu cháu nhất. Ngoài mẹ, có ai hôn cháu trong lúc đang ngủ đâu?"
* "Con chó Pop phải yêu cháu lắm, nên nó mới chịu liếm mặt cháu khi cháu đi chơi với cậu Sam và bỏ nó ở nhà một mình".
* "Hôm nay ba mẹ đưa chị cháu đi sắm đồ. Cháu biết chị cháu yêu cháu nên mới tặng lại cho cháu cái váy cũ chị ấy mặc đã chật. Nếu không yêu cháu chị ấy có thể đã cho con bé bạn hàng xóm rồi".
* "Mẹ cháu yêu ba cháu hơn cháu. Ba mặc chiếc áo sơ mi đó tới hai ngày mà mẹ vẫn khen đẹp. Còn cháu mới mặc chiếc áo đi chơi có một vòng, vừa về tới nhà đã bị bắt thay ra đem giặt lại còn bị la : Ở dơ như quỷ".
* "Cháu để cho chị cháu cú lên đầu cháu, là vì mẹ bảo có yêu chị mới làm vậy. Thế nên cháu sẽ cú đầu thằng em cháu, vì cháu rất yêu nó".
* "Theo cháu, yêu là khi người ta sợ. Cứ xem ba cháu thì biết. Ba không dám nói yêu mẹ, nên chờ cả năm tới ngày Lễ Tình Yêu mới mua thiệp có in sẵn câu Anh yêu em".
* "Tình yêu là thứ dễ quên lắm hả cô? Nếu không, tại sao bố mẹ cháu ngày nào cũng nhắc nhau : anh yêu em, em yêu anh".
Xin cho vừa đủ
Đó là một dịp lễ Tạ Ơn cách đây chắc cũng đã khá lâu. Hôm đó là ngày sau lễ Tạ Ơn độ khoảng một hay hai ngày. Tôi đang đứng ở quầy đợi của sân bay và chuẩn bị khởi hành cho chuyến bay từ chỗ tôi ở Philadelphia đến Texas vì bà ngọai tôi bệnh nặng và tôi cần có mặt để gặp bà ngoại tôi lần cuối. Tôi cảm thấy có cảm giác rất kỳ lạ và khó chịu trong người. Bà ngoại là người đã chăm sóc tôi từ khi tôi còn rất nhỏ. Tôi cảm thấy mỉnh rất có lỗi khi đã không quan tâm đến bà trong một khoảng thời gian dài. Cuộc sống đầy bận rộn lo toan chỉ chừa cho tôi một ít thời gian để lo cho bản thân tôi.
Ngay sau một dịp lễ lớn mà phải đi gặp một người yêu quý lần cuối thật là không dễ dàng chút nào. Tôi vừa nôn nóng muốn bay đến thật nhanh để gặp bà tôi nhưng lại cảm thấy không muốn đến gặp vì sợ phải từ giã bà tôi mãi mãi. Tôi nhìn chung quanh sân bay để kiếm một chuyện gì có thể giúp tôi không nghĩ đến bà tôi nữa. Sân bay hôm nay không đông đúc như mọi ngày vì mọi người vẫn còn vui vẻ đón dịp lễ bên gia đình. Tôi để ý thấy một người bố cũng đã lớn tuổi, độ ngoài 70 và một cô con gái đang đứng từ giã nhau. Hình như là chuyến bay của cô gái đã sắp khởi hành rồi nhưng hai người vẫn chưa muốn chia tay. Cả ông lão lẫn cô gái đều cố để kiềm nén cảm xúc của mình. Cuối cùng ông lão vuốt tóc con gái mình và giục con hãy lên máy bay. Cô gái nấn ná, ôm chầm lấy cha mình vài lần trước khi giã từ. Ông lão nói với con mình:
- Thôi con cứ đi đi. Lần sau con trở lại cha sẽ nói chuyện nhiều hơn với con. Con nhớ sống cho vừa đủ nhé.
Cô con gái cũng quẹt nước mắt và nói với cha:
- Vâng, thưa cha. Con cũng xin chúc cha vừa đủ.
Hai cha con chia tay. Ông lão còn đứng lặng lẽ nhìn theo con mình cho đến khi dáng cô khuất hẳn. Ông cụ run run lần đến chỗ ghế ngồi đợi chắc để cho cơn cảm xúc qua dần. Lắng nghe câu đối thọai của cha con họ từ nãy đến giờ, tôi đóan có lẽ cô gái từ xa đến ở với cha vài ngày vào dịp lễ này. Nhưng tôi rất thắc mắc không hiểu nổi lý do tại sao họ lại chúc nhau vửa đủ mà không chúc những thứ khác cho cuộc sống. Tôi vẫn thường nghe cha con chúc nhau một cuộc sống hạnh phúc và mọi điều như ý. Không nén được tò mò, tôi đến gần và hỏi ông lão:
- Chào bác ạ! Xin lỗi bác về sự đường đột này. Cháu thật không biết nói sao. Nhưng cháu đã vô tình nghe thấy cuộc nói chuyện giữa bác và con gái bác. Cháu rất thắc mắc không hiểu tại sao bác không chúc con gái bác những thứ khác mà lại chúc cô ấy vừa đủ thôi ạ?
Ông lão thoáng chút bối rối vì câu hỏi của tôi. Đoạn ông gạt nước mắt, đôi mắt mờ đục của ông ngấn đầy nước, đỏ hoe và nhìn rất tội nghiệp. Ông cố nở một nụ cười với tôi:
- Chắc cậu không biết, con gái của tôi ở một tiểu bang rất xa đến đây. Lúc nãy tôi đã nói dối với nó. Vì khó khăn lắm nó mới có dịp đến đây một lần. Cậu biết mà người ta khi lập gia đình rồi thì cần chăm sóc cho gia đình, nhất là phụ nữ thì càng có nhiều nghĩa vụ hơn. Nó cũng sắp xếp lắm mới có một dịp đến đây năm nay. Khi nãy, tôi nói với nó là cứ đi đi nhưng tôi biết là đây là lần cuối tôi có thể gặp được nó. Lần trước, lúc nó về đây là cách đây 8 năm. Đó là lần đám ma của mẹ nó. Lần sau, nó sẻ có trở về thì có thể lả để dự đám tang của tôi. Tôi biết rõ sức khoẻ của mình lắm.
Ông cụ dửng lại một chút như để dằn lại cơn xúc động. Ông tiếp, gương mặt thoáng có phần đã đỡ chút ưu sầu:
- Còn lời chúc đó là của gia đình tôi từ trước đến nay cho nhau. Cuộc sống người ta thật không cần đến nhiều lắm mà chỉ cần có vừa đủ để ta có thể biết trân trọng và yêu quý cuộc sống thôi.
Tôi ngỡ ngàng và rất cảm động đến vài giây. Chân lý cuộc sống sao mà lại có thể đơn giản và đầy ý nghĩa đến như vậy. Điều đó thật đúng và thật sâu sắc. Cuộc sống luôn có sự cân bằng. Chúng ta cần có đủ mưa để cảm nhận thấy sự ấm áp và chan hoà của nắng, cần có đủ màn đêm để cảm thấy sự rực rỡ của mặt trời, cần có đủ bệnh tật để cảm thấy sự cần thiết của sức khoẻ, cần có đủ khổ đau để cảm thấy hạnh phúc, cần cảm thấy sự túng thiếu để trân trọng từng bữa ăn, từng chiếc áo và căn nhà ta ở, cần có sự tẻ nhạt để cảm thấy sự hào hứng, cần có không màu để cảm thấy màu sắc tươi đẹp và muôn mặt của cuộc sống. Cuộc sống là một món quà rất đẹp của Tạo Hóa. Và bản thân cuộc sống là một món quà đầy ý nghĩa chỉ cần chúng ta có vừa đủ những điều tốt và xấu trong cuộc sống để cảm thấy mình hạnh phúc và cuộc sống ý nghĩa
Hình phạt
Ở một ngôi trường nọ, có một lớp học toàn học sinh “cá biệt”. Gọi là cá biệt cả thì không hẳn, nhưng lớp học đó có nhiều học sinh ngang bướng, quậy phá, lại có nhiều học sinh con của những gia đình mà các thầy cô cho là “ thành phần bất hảo” . Không những là các thầy cô không muốn dạy lớp này vì cái tiếng xấu đó, mà thực tế cho thấy là họ cũng không thể chịu nổi các học sinh nói chuyện, đánh nhau trong giờ học…
Đến một ngày, một thầy giáo trẻ mới được phân công về trường, nhà trường phân công ngay cho thầy về dạy lớp đó.
Đã nghe tiếng xấu của lớp học này, ngay buổi đầu tiên vào lớp, thầy đã nói :
Các bạn trẻ, tôi đến đây để quản lý lớp chúng ta. Nhưng tôi không thể tự làm điều đó được. Cho nên tôi cần sự giúp đỡ của các bạn.
Rồi thầy giải thích rằng, trong một lớp học bao giờ cũng cần quy tắc, và thầy bảo các học sinh hãy tự đặt ra quy tắc để tuân theo.
“ Những người bạn trẻ” bắt đầu nghĩ, rồi đưa ra một loạt quy tắc:
Không được ăn cắp!
Phải đến lớp đúng giờ…
Chẳng mấy chốc mà đã có đến 10 quy tắc. Và bọn học trẻ đều hứa sẽ tuân thủ chặt chẽ, ai không làm sẽ bị phạt 10 roi lên lưng mà chỉ được mặc áo sơ mi chứ không được mặc áo khoác.
Mọi việc ổn trong vòng 2-3 ngày. Đến ngày tiếp theo thì Tom, cậu bé cao lớn và nghịch, bướng nhất lớp tỏ ra rất cáu giận, kêu ầm lên rằng có ai ăn cắp cái bánh - một phần bữa trưa của cậu ta.
Sau một hồi điều tra, bàn luận, mọi người đã kết luận rằng chính bé Tim- cậu bé lặng lẽ nhất lớp- đã ăn trộm cái bánh, vì có nhiều bạn nhìn thấy Tim ăn cái bánh ấy.
Tim bị gọi đứng lên trước lớp, và Tim nhận lỗi.
- Em hãy cởi áo khoác ra để chịu hình phạt - thầy giáo nói.
Tim mặc một cái áo khoác rộng thùng thình, dài đến tận đầu gối. Cậu bé năn nỉ:
- Em đã ăn trộm. Em có lỗi. Em sẵn sàng chịu đánh. Nhưng xin thầy để em mặc áo.
Thầy giáo không đồng ý. Thầy nhắc Tim nhớ những nguyên tắc đã đặt ra và bảo Tim hãy chịu hình phạt “ như một người đàn ông”.
Đứa bé chậm chạp cởi áo khoác. Khi đó, thầy giáo thấy rằng cậu bé không mặc áo sơ mi hay bất kỳ cái gì khác bên trong áo khoác.
Ngạc nhiên, thầy hỏi tại sao Tim không mặc áo sơ mi.
Tim khóc mà nói ; ”Em chỉ có một cái áo sơ mi thôi. Mẹ em giặt nó chưa khô nên em phải mượn áo của anh trai em để mặc…Bố em mất lâu rồi, mẹ không có tiền…em rất đói…em đã ăn trộm bánh của bạn Tom…em xin lỗi…”
Dù rất xúc động, nhưng hình phạt vẫn là hình phạt và thầy giáo trẻ biết rằng mình phải nghiêm khắc.
Nhưng trước khi cái roi đầu tiên chạm vào người Tim thì Tom đứng bật dậy nói : “Trong số các quy tắc, không có quy tắc nào nói rằng em không thể chịu hình phạt thay Tim, đúng không ạ?”
Tom cởi áo khoác và đứng che cho Tim trước mặt cả lớp.
Một cách ngần ngại, thầy giáo vẫn phải giơ cao chiếc roi. Nhưng bạn sẽ không thể tưởng tượng được, là khi cái roi đầu tiên chạm vào lưng Tom, cái roi bị gãy làm đôi.
Bé Tim ôm chặt lấy Tom, thì thầm xin lỗi và nói rằng bé sẽ yêu mến Tom mãi mãi.
Trong lớp không còn đôi mắt nào khô…
Ô cửa kính vỡ
Vào năm 1954, tôi mới 12 tuổi. Lúc đó, tôi thường dậy sớm đi bỏ báo xong rồi về học. Trong số khách hàng của tôi có một bà lão tóc bạc phơ sống một mình trong ngôi nhà nhỏ trên phố Chuồng Chim. Ít khi tôi nhìn thấy bà lão. Thường thì tôi bỏ báo vào thùng thư, nhấn chuông báo hiệu rồi vội đi ngay cho kịp bởi tuyến đường đưa báo của tôi còn dài.
Chuyện xảy ra vào một ngày đông. Chiều hôm đó, trên đường từ trường về nhà, tôi và lũ bạn chợt chú ý tới bức tượng con gà trống cắm trên nóc nhà bà lão. Gió đổi chiều thì con gà trống quay theo hướng gió. Mỗi lần như vậy, cổ con gà trống gật gù trông ngồ ngộ. Lũ chúng tôi tấp xe đạp vào lề đường, túa ra kiếm sỏi. Ở vùng tôi sống, sỏi không thiếu nhưng vì đang mùa đông nên chúng tôi phải bươi lớp tuyết mới kiếm được chúng. Có sỏi, chúng tôi thách nhau chọi trúng con gà.
Cuộc chơi thật náo nhiệt nhưng vì gặp khúc phố vắng nên chẳng ai la chúng tôi.
Đến lượt mình, tôi ném trượt hòn sỏi thứ nhất. Hòn thứ hai, thứ ba cũng vậy. Đến hòn thứ tư, tôi vung tay và chỉ kịp nghe choảng một cái. Trời ơi, hòn sỏi không bay lên nóc nhà mà trượt qua các kẽ ngón tay tôi lao thẳng vào cửa sổ nhà bà lão. Có lẽ vì trời lạnh các ngón tay tôi tê cứng mà hòn sỏi lại quá trơn. Bỏ mặc cánh cửa kình vỡ toang, chúng tôi hoảng hốt nhảy phóc lên xe đạp hộc tốc chạy trốn.
Sáng hôm sau, tôi đi giao báo mà như đi ăn trộm. Rón rén thả tờ báo vào khe thùng thư, tôi không dám bấm chuông, cứ thế lặng lẽ đạp xe đi tiếp bỏ lại sau lưng khung cửa kính vỡ toang hoác như đang nhìn xoáy vào gáy tôi. Đi học, tôi phải đi đường vòng qua mấy phố khác để tránh nhà bà lão. Được mấy ngày như vậy, tôi chợt thắc mắc: “Trời lạnh như cắt da cắt thịt, tại sao bà lão không kêu làm lại kiếng? Ở tuổi bà ấy, phải cảm lạnh thì nguy ! Hay bà ấy không có tiền? Những câu hỏi đó giày vò tôi suốt một đêm và tôi quyết chuộc lại lỗi lầm.
Suốt 3 tuần sau đó, tôi không dám chi tiêu dù chỉ một xu từ khoảng tiền công bỏ báo và cất lại được 7 đôla, mà tôi nghĩ là đủ để bà lão lắp một tấm kiếng mới. Tôi bỏ số tiền vào phong bì kèm một mẩu giấy nhỏ giải thích ngọn ngành và nhét nó vào thùng thư với mấy tờ báo. Đồng thời tôi cũng phát hiện ra thùng thư còn khá nhiều báo. Qua ngày hôm sau, vẫn chưa có ai lấy báo. Tôi lo lắng. Do dự một hồi, tôi liều nhấn chuông. Chờ mãi không thấy người mở cửa, tôi đánh bạo gõ cửa một nhà hàng xóm: “Bà Elizabeth hả? Đi rồi, đi gần tháng nay. Có xe chở đi. Tôi không rõ, chắc bệnh nặng”. Tôi rùng mình. Rõ ràng, bà lão bị cảm lạnh từ hôm tôi làm bể kiếng.
Rồi lại hai tuần nữa qua đi. Ngày nào tôi cũng ghé qua nhà bà lão ngóng xem trong đó đã có người hay chưa. Cho tới một ngày kia, khung cửa kính vỡ đã được thay, trên bậu cửa sổ xuất hiện một chậu hoa nhỏ, thùng thư trống hoác. Vui mừng khôn xiết, tôi bấm chuông cửa nhà bà lão. Tôi sững sờ: người mở cửa cho tôi là một phụ nữ trẻ. “Bà Elizabeth ? Bà ấy bán căn nhà này cho tôi rồi. Đi đâu à? tôi không biết. Cậu là cậu bé đưa báo à? Cậu đợi chút. Bà lão có thư cho cậu”.
Tôi đứng trên hè phố mở thư: “Chào cậu bé. Vì sức khỏe ta phải xuống miền Nam ở với các con. Lỗi không phải do cậu. Ta đã rời nhà trước khi cửa kính vỡ. Tuy nhiên, ta rất thích cách xử sự của cậu. Ráng giữ như vậy trong đời. Ta có món quà nhỏ tặng cậu. Hy vọng chúng ta có dịp gặp lại”.
Tôi mở gói giấy nhỏ và nhận ra 7 đôla mà tôi đã gởi cho bà lão.
Nhu cầu đặc biệt
Khoảng 2 tuần sau lễ khai giảng, lớp tôi nhận thêm một học sinh mới. Kèm theo cô học sinh tên Kate này là một “chỉ thị” mới từ phòng giám hiệu: đây là một cô bé có nhu cầu đặc biệt.
Kate bị bố mẹ bỏ rơi ngay khi mới sinh. Cô bé bị đưa từ trại trẻ mồ côi này sang viện từ thiện khác, rồi cuối cùng được một người họ hàng xa nhận về nuôi. Cô bé lúc nào cũng trầm uất và người họ hàng đó đưa cô vào trường dành cho trẻ em chậm phát triển.
- Có lẽ Kate chẳng làm được gì nhiều đâu. Cô cứ thử xem sao thôi! Cô hiệu trưởng nói với tôi như vậy.
Trước hôm Kate đến, tôi phải trò chuyện với cả lớp. Học sinh của tôi đều là những đứa trẻ hiếu động, nên tôi phải nhắc nhở rằng người bạn mới là người có nhu cầu đặc biệt, và tất cả đều phải giúp đỡ bạn. Tôi phân công hai cô bé ngoan nhất lớp là Deirdre và Rene, ngồi cạnh Kate để trở thành những người bạn đặc biệt của cô bé.
Ngày hôm sau Kate đến lớp. Tim tôi thắt lại khi nhìn thấy cô bé. Kate lê bước chậm chạp như một người già, tóc rối bù vì không được chải. Mắt cô bé xanh biếc nhưng trống rỗng, còn tay ôm một con búp bê rất bẩn.
”Mình biết làm gì với cô bé này bây giờ? Nó cần những gì và mình đáp ứng được những gì?”. Tuy nhiên, Deirdre và Rene đã nhanh chóng kéo cô bạn mới vào chỗ ngồi.
Nếu bạn hay tiếp xúc với các em học sinh nhỏ, bạn sẽ nhận ra rằng chúng không bao giờ ngừng làm cho bạn bất ngờ. Không học sinh nào trong lớp tôi coi sự có mặt của Kate là bất thường. Chúng cư xử tự nhiên như thể Kate là người bạn hoàn toàn giống chúng.
Ngày qua ngày, Rene và Deirdre dạy Kate đi thẳng hơn, cùng Kate giặt quần áo cho con búp bê mà lúc nào Kate cũng mang theo. Vài cậu bé trong lớp dạy Kate tô màu. Buổi trưa, luôn có một đám bạn vây quanh Kate và giúp Kate ăn bằng thìa chứ không phải bằng tay như trước. Sự trống rỗng rời khỏi đôi mắt xanh cảu Kate, Kate cười nhiều hơn, thậm chí bắt đầu biết viết e-mail.
Sự thay đổi không chỉ ở Kate. Các học sinh lớp tôi đều thay đổi. Chúng dễ thương và kiên nhẫn hơn. Chúng tôi như một gia đình lớn chứ không chỉ là một lớp học.
Một ngày, khi tôi đọc chính tả cho cả lớp, bỗng Kate đứng dậy, lại gần tôi:
- Em có thể giúp cô đọc không?
Tôi hơi ngạc nhiên, nhưng cũng đồng ý. Thế là cứ mỗi câu tôi đọc ra, Kate lặp lại cho mọi người nghe bằng giọng nói hơi ngọng nghịu và rất đặc biệt của cô bé. Cả lớp mỉm cười và đó là bài chính tả tốt nhất mà học sinh của tôi từng làm. Từ đó, mỗi tuần một lần, tôi để Kate giúp tôi với việc đọc chính tả.
Cuối năm học, Kate thi đỗ vào một trường cấp hai công lập. Từ hồi đó, tuy tôi không bao giờ gặp lại Kate nữa, nhưng tôi vẫn thường nghĩ tới cô bé và luôn mang theo một bức ảnh của cô trong ví. Kate nhắc tôi đến niềm hạnh phúc mà chính cô bé đã mang đến cho tôi và học sinh của tôi. Niềm hạnh phúc đó là sự thông cảm và thấu hiểu, rằng mỗi người, dù thuộc tôn giáo nào, dân tộc nào, xã hội nào hay trình độ nào, cũng đều là một người có “nhu cầu đặc biệt”. Và nhu cầu đặc biệt nhất là sự yêu thương.
Frankie Germanyl
Cậu Bé Chờ Thư
Hồi đó tôi làm giáo sư một trường trung học con trai. Một học sinh tên là Bob, trái hẳn với các bạn, không bao giờ nhận được một bức thư nào cả. Vậy mà buổi chiều nào em cũng mau chân nhất, chạy lại chỗ đặt các hộc riêng chăm chú ngó vào hộc của em cho tới khi thư phát hết rồi mới quay ra.
Không phải là gia đình em quên em đâu. Tiền ăn ở trong trường, tiền tiêu vặt của em vẫn gởi tới đều đều đúng hạn. Tháng sáu, ông Hiệu trưởng nhận được thư xin cho em đi nghỉ ở một trại hè. Thì ra viên thư ký của thân phụ em lãnh nhiệm vụ lo cho em tất cả những chi tiết đó.
Nhưng song thân em không ai viết cho em một bức thư nào cả. Khi em kể lể với tôi rằng ba má em đã ly thân nhau, tôi mới hiểu tất cả nguyên do. Và tội nghiệp em, em vẫn tiếp tục trông thư một cách tuyệt vọng. Tôi thường đem tình cảm sầu thảm của em ra nói với một ông bạn đồng nghiệp, ông Joe Hargrove. Ông ấy bảo:
- Nếu em đó ít lâu nữa mà không nhận được bức thư nào cả thì đáng ngại cho em lắm, có thể tai hại.
Thế rồi một bạn học thân nhất của em, tên là Laurent nảy ra một sáng kiến. Laurent ở trong một gia đình hòa thuận, có hạnh phúc, tuần nào cũng nhận được nhiều bức thư của cha mẹ, cả của anh chị em nữa. Một hôm Bob rầu rĩ ngó xấp thư Laurent cầm trong tay. Laurent thấy vậy, bảo ngay:
- Bob, vô trong phòng tôi đi, tôi đọc thư của má cho Bob nghe.
Một lát sau tôi thấy hai em ngồi sát nhau cùng bàn tán về bức thư đó. Chiều hôm sau tôi nhận thấy khi phát thư, Bob chẳng những ngó hộc của em mà còn ngó hộc của Laurent nữa. Bob hỏi bạn:
- Lại có thư của má anh nữa hả?
- Không, hôm nay là thư của chị tôi.
Rồi Bob hỏi một bạn khác:
- Anh có thư của má anh không?
- Có !
- Anh cho tôi đọc chung với nhé?
- Ừ! Để tôi đọc lớn tiếng lên nhé!
Từ hôm đó, Bob tha hồ đọc thư của bạn. Khắp tứ phía nhao nhao lên:
- Ê, Bob, hôm nay muốn đọc thư của má không?
Tụi con trai đôi khi có vẻ tàn nhẫn, không giữ ý gì cả nhưng tuyệt nhiên tôi không thấy một em nào thốt một lời mỉa mai bóng gió hay chế giễu gì em Bob cả. Một hôm tôi kinh ngạc nghe em Bob tự do hỏi ngay Laurent:
- Hôm nay chúng mình có thư không?
Laurent mỉm cười đáp liền, không hề do dự:
- Có, hôm nay chúng mình có một bức.
Chuyện đó làm cho ông Joe Hargrove quyết tâm hành động. Tôi thì tôi cho má em Bob là hạng người ra sao rồi. Nhưng ông Joe đã gặp bà ta nhiều lần, định làm liều xem sao. Một hôm ông ta lại kiếm tôi, tay cầm sáu bức thư đánh máy và sáu bao thư đề địa chỉ của Bob, dán cò sẵn sàng. Ông ta bảo:
- Coi này, tôi gởi cho bà Lennoux đây. Bà ta chỉ cần ký tên: "Má của con" rồi mỗi tuần bỏ một bức vào thùng thư.
Tôi đọc những bức thư đó. Viết được lắm, ít bữa sau, Bob cũng lại ngong ngóng đợi ở chỗ đặt các hộc riêng, nhưng chú hết ý vào cái hộc của Laurent. Bỗng học sinh lãnh việc phát thư, la lên:
- Ê, Bob, mày có thư này ! Có thư này!
Bob nhẹ nhàng đưa hai tay lên, cử chỉ y hệt một thiên thần đương cầu nguyện, để đỡ lấy bức thư. Em nói, như thể vẫn chưa tin:
- Ờ có tên tôi ngoài bao thư nè!
Rồi em la lên:
- A ! Tôi cũng có thư! Tôi cũng có thư! Anh em ơi, có ai muốn đọc thư của tôi không?
Những đứa khác cũng vui mừng, đồng thanh la lớn:
- Có ! Có ! Bob, đọc thư của bồ lên, đọc lên?
Cuộc phát thư tức thì tạm ngưng lại. Chúng đưa Bob lên cho đứng trên một cái bàn rồi cả bọn vây chung quanh. Bob ngập ngừng đọc:
- Con cưng của má !
Rồi ngẩng lên nói:
- Tôi không đọc nhanh được !
Laurent bảo:
- Không sao, Bob! Cứ đọc chầm chậm, càng tốt. Đọc chậm mới hiểu rõ từng chữ chớ.
Và Bob chậm chạp đọc bức thư đó, lời lẽ âu yếm như bức thư của bất kỳ bà mẹ nào gởi cho con.
Tháng sáu, buổi phát phần thưởng, tôi thấy má em Bob lại dự. Tôi không ngạc nhiên về điều đó, vì sau khi gởi hết mấy bức thư ông Joe viết sẵn cho rồi, bà ta đích thân viết cho con, quả là một phép màu ! Bob đã cho tôi coi bức thư bà báo trước sẽ tới dự buổi lễ. Phát phần thưởng xong, bà ta kéo tôi ra một chỗ, hỏi tôi:
- Bà thấy thư tôi viết cho cháu được không?
- Được lắm!
Bà ta nói tiếp giọng hơi ngập ngừng:
- Tôi nhờ bà nói về tôi cho cháu Bob nghe . . .
- Vợ chồng tôi đã hòa thuận với nhau hơn trước, và chúng tôi tính với nhau nghỉ hè này cho cháu về nhà, và . . . chúng tôi sẽ tìm cách hiểu cháu hơn.
- Xin bà yên tâm, tôi sẽ hết sức giúp bà.
Tôi có cần gì nói thêm rằng không có công việc nào làm cho tôi vui bằng công việc đó không?
Louise Baker
Đĩa súp nóng
Khi đã hơn 4 tuổi, tôi mới nhớ mặt cha. Những chuyến công tác dài ngày đường đi biền biệt. Thỉnh thoảng ông ghé về nhằm ngày, tôi chưa kịp làm quen thì ông lại ta đi. Cảnh tượng đầu tiên được lưu lại trong tâm trí non nớt cửa tôi là khi người đàn ông khoác ba lô bước ra cửa, mẹ tôi ôm lấy ông sụt sịt, tôi cũng ề à khóc theo. Lần nào ông cũng ngồi xuống nhìn vào mắt tôi một lúc. Rồi ông đứng dậy, vỗ mạnh bàn tay to tướng và nặng trĩu lên vai tôi khiến tôi lảo đảo. Ông cười và nói một câu mà lúc đó tôi không hiểu: "Con trai! hãy tỏ ra đàn ông đi nào" và đến khi hiểu được tôi đâm ta tự ái. Mỗi khi chia tay với ông, tôi đứng dạng hai chân chờ đợi, mắt nhìn lom khom xuống đất để khỏi nhìn thấy những giọt nước mắt của mẹ.
Cuộc sống trong sự âu yếm của mẹ bất ngờ chấm dứt khi mẹ tôi đột ngột qua đời vì bệnh. Cha tôi trở về và một cuộc sống hoàn toàn khác khiến tôi nhìn ông bằng con mắt nghi ngại. Mỗi sáng sớm, tôi không còn được cái thú nghe những lời năn nỉ của mẹ: "Dậy đi nào, con yêu của mẹ". Thay vì được nằm ườn ra và lăn qua lăn lại trên đống chăn gối, giờ tôi phải nhanh chóng bật dậy chạy vài vòng cùng cha tôi quanh phòng, trước khi chúng tôi tập thể dục theo chương trình phát trên truyền hình. Bữa ăn sáng cha tôi chúi đầu vào tờ báo, chẳng vội giục giã mời chào như mẹ khiến không ít ngày tôi phải vác cặp đến trường với cái bụng đói meo.Tôi phải tự mặc quần áo, đi giầy, tự rửa mặt đánh răng , xếp cặp xách đi học . . . Đó là những việc mẹ tôi đã dạy tôi làm, nhưng tôi cứ quên hoặc vì muốn làm nũng nên bỏ ỳ ra đó cho mẹ tôi làm hộ.
Một lần tôi khóc tức tưởi và bỏ về nhà bà ngoại. Chẳng là gặp địa súp hay đĩa cháo nóng mẹ tôi thường thổi cho nguội rồi mới đưa cho tôi. Vì cha tôi nấu ăn không được như mẹ, nên bữa ăn của chúng tôi thường rất muộn. Súp đổ ra đĩa còn bốc khói nghi ngút, cha tôi hối hả thọc muỗng vào đĩa. Thấy tôi ngồi nguyên cha tôi giục: "Ăn nhanh đi con. Rồi cha con mình còn phải rửa bát đĩa nữa." " Tại sao cha không làm nguội súp cho con?" " Con là đàn ông, con tự làm đi. Con vừa thổi vừa múc súp ở rìa đĩa mà ăn. Súp ở chỗ đó nguội hơn."
Một bữa nọ, tôi nghe tiếng cha tôi nói với bà tôi: "Làm mẹ, thương con thổi cháo cho nguội cho con ăn. Làm cha, thương con phải dạy con biết cách húp đĩa súp nóng. Lớn lên cháu nó sẽ hiểu, mẹ ạ."
Đĩa súp nóng của cha tôi là bài học đầu tiên mà tôi không bao giờ quên được . . . khi tôi, đến lượt mình, trở thành người cha.
Cao với xa
Một thiền viện tập trung rất nhiều tăng đồ học tập. Ngày nọ, các tăng đồ đứng ngắm nhìn bức hoạ long hổ giao tranh vẽ trên bờ tường thiền viện.
Trong bức tranh, long đang cuộn mình ở trên mây, thế hướng nhào xuống; hổ đang thu mình ngồi trên núi, thế đang muốn ngóc lên. Tuy nhiên, qua mấy lần vẽ sửa, mọi người đều cảm thấy khí thế trong đó không đủ, không có sức cảm dẫn người xem.
Mọi người đang tranh luận sôi nổi thì thiền sư từ ngoài bước vào, mọi người xin thiền sư đưa ra ý kiến về bức vẽ của họ để tìm cách thay đổi. Thiền sư sau khi xem xét tỉ mỉ liền nói: “Vẽ rất đẹp nhưng đặc tính của long và hổ không nắm vững nên xem ra cảm thấy thiếu khuyết cái gì đó. Long trước khi công kích, đầu của nó tất sẽ hơi co về phía sau; hổ trước khi chồm dậy, đầu hơi cúi xuống thấp. Góc cong sau đầu long phải lớn; đầu hổ càng sát đất thì chồm lên càng nhanh, nhảy được càng cao”.
Mọi người nghe lời giải thích của thiền sư chợt hiểu ra, đồng thanh nói: “Thiền sư thực là đã hiểu ý đạo, thảo nào bọn con đều thấy thiếu khuyết cái gì đó, cảm thấy chúng bay không định, muốn nhảy mà không cao”.
Thiền sư mượn cảnh thuyết giáo: “Đạo lý của người tham thiền học đạo cũng giống vậy. Lùi một bước để chuẩn bị, nhảy mới được xa; sau khi khiêm tốn cảnh tỉnh bản thân, trèo mới lên được thật cao. Long là một loại linh thú, hổ là vua trong giống thú, đều giống nhau ở một điểm là lùi một bước để tiến, phủ phục để lấy cao, lấy khiêm tốn để cao thượng; lấy nguyên tắc này để tham thiền, tu đạo, đối nhân xử thế không phải thích hợp lắm sao?”
Cuộc ngụ ngôn của hai tờ giấy bạc
Thông thường khi xếp tiền vào ví người nào cũng phân loại tiền, để những tờ bạc cùng mệnh giá nằm sát nhau. Thế nên tờ giấy bạc 1 đô la hiếm khi có được may mắn đứng cạnh tờ giấy bạc 100 đô la trong ví.
Sau khi hai tờ giấy bạc luân lưu trong thế gian, một lần nọ số phận xui khiến người chủ gập hai tờ bạc có giá trị cách nhau 100 lần nằm trong một cái ví. Vui mừng vì được gặp một người bạn nổi tiếng, tờ bạc 1 đô la bắt chuyện, hỏi han về những thế giới mà tờ bạc 100 đô la kia đã từng đi qua. Tờ bạc 100 đô la hứng chí khoe :
"Tớ từng thấy vô khối cảnh vương giả. Tớ từng có mặt trong tất cả các khách sạn sang trọng nhất, đắt tiền nhất. Các tỷ phú không bao giờ mò tới những sòng bạc lớn nhất nếu không có tớ đi theo. Tớ làm cho ví của 500 doanh nhân giàu nhất nước Mỹ căng phồng. Quyền uy cỡ các tổng thống Mỹ nhưng không ai trong số họ dám quên tớ. Tớ đã từng đi đâu ư? Tớ đã đi từ nam lên bắc, từ bờ Thái Bình Dương qua bờ Đại Tây Dương, tớ đã tới hầu như tất cả các nước trên thế gian này...".
Nghe tờ 100 đô la kể, anh bạn 1 đô la chăm chú lắng nghe. Khi tờ 100 đô la nói xong, tờ 1 đô la nói:
" Quả tình mình chưa bao giờ được tới những nơi sang trọng như bạn kể. Nơi mình có mặt nhiều nhất là những thùng lạc quyên giúp người nghèo và bất hạnh".
Câu chuyện ngụ ngôn kể trên đã mang lại một vài kết luận như sau : Điều quan trọng không phải là mình khoác lên mình chiếc áo gì mà là mình đã làm gì khi khoác lên chiếc áo đó. Đôi khi những đồng tiền bé nhỏ lại đem đến những điều thật lớn lao và đầy ý nghĩa.
Hai mảnh đời
Mẹ tôi kinh doanh một tiệm cơm nhỏ. Cả nhà chỉ có bốn thành viên và mỗi người một việc. Mẹ tôi đứng bếp, tôi chạy bàn, năm nay vừa mười ba tuổi. Bà ngoại ngồi rọc giấy làm khăn lăn, bà bị mù nhưng việc bà làm rất chính xác không chê vào đâu được.
Riêng chú chó Lu Lu có nhiệm vụ giữ xe cho khách hàng và canh những kẻ trộm vặt không mời mà đến, nhất là lũ mèo hoang háu đói nghe tiếng Lu Lu gầm gừ là biến ngay.
Một buổi tối, sau khi cửa hàng mẹ tôi đóng cửa, bên ngoài trời đang mưa, bốn thành viên ngồi quây quần bên nhau nói cười vui vẻ. Tôi cảm nhận được niềm hạnh phúc trên mặt ngoại và mẹ. Dưới chân, con Lu Lu cũng nguẩy đuôi ra chiều đồng ý. Tôi nói với mẹ ý nghĩ này. Mẹ mỉm cười, thoáng chút ngập ngừng rồi mẹ kể câu chuyện dưới đây.
Hồi đó, hàng cơm chỉ có mỗi mẹ. Tôi mới lên ba, không giúp ích được gì. Mẹ vừa đứng bếp, vừa bưng bê . . . , tất cả một tay mẹ lo liệu. Một hôm, mẹ phát hiện mất một đùi gà rán, không bắt được kẻ cắp. Từ đó, cứ mỗi buổi trưa cửa hàng cơm lại mất một món thức ăn nào đó. Mẹ quyết tâm bắt cho được kẻ trộm bằng cách rán một đùi gà thơm ngon để ngay rìa bếp rồi ngồi rình. Không lâu, có một chú chó lông vàng hun ốm yếu chạy đến quán cơm. Nó thừa lúc không ai để ý ngoạm lấy đùi gà biến mất. “Kỳ này mày chết rồi, ranh ạ!”- mẹ nhủ thầm. Hôm sau, mẹ thủ sẵn khúc cây to, lần theo chú chó. Mẹ nghĩ thừa lúc nó đang mải mê ăn miếng đùi gà thơm ngon kia mình phang cho nó một đòn vào đầu là yên chuyện. Mẹ men theo con hẻm dẫn xuống gầm cầu. Trước mắt mẹ, một bà cụ mù lòa, rách rưới đang cầm đùi gà ăn ngon lành, còn con chó lông vàng hun nằm dưới chân, đuôi ngoe nguẩy. Nhìn thấy cảnh ấy, mẹ không nỡ đánh con vật.
Từ ngày đó, mẹ thường xuyên đem cơm cho bà cụ mù lòa. Thời kỳ đó mẹ cũng không dư dả gì nhưng quán cơm lúc nào cũng còn thừa chút ít thức ăn, đổ đi thì phí. Khi đã thân thiết, một hôm bà cụ nói: “Già thấy nhà con neo đơn mà ngày nào cũng cho già ăn. Nếu con không chê, già này xin đến phụ việc với con”. Mẹ tôi gật đầu đồng ý ngay.
“Con nghe đây- Mẹ tôi nhấn mạnh- Chỉ có mẹ và con hoặc chỉ có ngoại và con Lu Lu kia thì không thể có một gia đình ấm cúng như bây giờ. Chính hai nửa mảnh đời bất hạnh ghép lại mới trọn vẹn hạnh phúc như hôm nay”. Mẹ kết thúc câu chuyện. Còn nước mắt tôi thì giàn giụa tự lúc nào.
Góc bình yên
TTO - Tôi vẫn nhớ như in ngày mẹ giao cho tôi chiếc xe gắn máy và nói bằng một giọng rất xúc động:
-Mẹ chỉ có thể lo cho hai anh em con đến đây thôi. Hai đứa học xong đại học và có chiếc xe máy để làm phương tiện đi lại. Mẹ không có nhiều hơn được!
Tôi đã rất xúc động, nhưng - như một khoảng cách vô hình - thật khó để một đứa con trai có thể . . . ôm chầm lấy mẹ vào lúc đấy mà nói với mẹ rằng : “Không chỉ là chiếc xe hay bất kỳ thứ vật chất nào đâu mẹ ạ, mà mẹ đã cho con thật nhiều, cho con cả một tâm hồn đầy đặn từ chính những gì mẹ đã làm.”
Ngày mẹ đám cưới, mọi người nói bà ngoại khóc nhiều. Mà không lo lắng sao được khi cô nữ sinh của trường nữ Gia Long “danh giá” ngày nào, vừa tốt nghiệp sư phạm và là “tiểu thư” của một gia đình tương đối khá giả ở Sài Gòn chấp nhận về quê chồng làm dâu, trở thành một cô giáo nhỏ tại một vùng biển, đất đai khô cằn ở miền Trung.
Cuộc sống không đẹp như mẹ mong muốn. Ba tôi sau khi được cử vào Sài Gòn học nghiệp vụ đã bị choáng ngợp bởi một cô gái thị thành khác, để rồi quên đi cô vợ “quê” đang ở vùng biển mỗi ngày trông ngóng mình về. Chuyện gì đến cũng đến. Từ ngày tôi tròn ba tuổi, tôi đã không còn nghe được tiếng cười nói của ba, và căn nhà không còn hơi ấm của trụ cột gia đình. Mẹ tôi gạt nước mắt, đưa hai con vào Sài Gòn chỉ với hai bàn tay trắng.
Ký ức về ba của tôi qua những người thân trong gia đình và hàng xóm chỉ là những lời trách móc về một người đàn ông “thật tệ”. Nhưng mẹ tôi lại không nói thế. Cuộc sống luôn có những điều vừa lòng và không vừa lòng tồn tại, hãy biết cách tha thứ để giữ cho tâm hồn mình luôn có những ngày vui.
Mẹ đặt ra một quy tắc trong gia đình là hãy cứ xem như ba đi công tác xa, không có mặt ở nhà, cả nhà . . . không nói xấu ba nhé! (Vì càng “nói xấu” thì lại càng nhớ đến, mà càng nhớ đến thì chỉ càng thêm buồn phiền mà thôi). Bây giờ là ba đi vắng rồi, mẹ lo kiếm tiền cho con đi học, lo chuyện bếp núc, “thằng lớn” “tạm” thay ba xem máy móc, xe cộ trong nhà có hư thì sửa “dùm ba”; thằng út thì coi bàn ghế có hư hỏng thì đóng lại!
Mẹ còn tự đi học thêm cách sửa chữa điện nước, xe cộ để vừa tự lo liệu gia đình, vừa “thay mặt ba” dạy lại hai đứa con trai trong lúc “ba vắng nhà”. Cứ như thế, dẫu còn nhiều khó khăn lẩn khuất trong căn nhà chỉ có một phụ nữ trẻ và hai đứa con nhỏ, nhưng mỗi chiều về vẫn rộn vang tiếng cười.
Không những thế, biết bà nội sống một mình ở miền quê cũ lúc nào cũng nhớ thương con, cháu, cứ mỗi kỳ nghỉ hè mẹ lại đưa hai anh em ra ở cùng với bà, để bà khuây khỏa. Mẹ cứ dặn mãi: “Nhà mình đã không giận ba, thì càng không được giận bà nội, càng không được nói những điều không hay về ba với bà, vì bà là người thương con, cháu nhất. Mà, không chỉ là bà đâu, đã hễ ai thương mình thì mình không được đối xử tệ với người ta". Vì những lời dặn ấy mà những ngày hè ở cùng bà nội, với chúng tôi, là những ngày thật sự của tình thương yêu.
Ngày bà mất đột ngột, mẹ và bà ngoại đã vội thuê ngay một chiếc xe đi trong đêm, để hai cháu được ra kịp nhìn bà lần cuối trước khi bà trở về với đất trời và lo liệu thêm cho bà. Đứng trước di ảnh của bà đêm hôm ấy, không cần một lời nói nào của mẹ, nhưng cũng đã đủ cho tôi hiểu được con người ta sống với nhau rất cần cái tình, cái nghĩa như thế nào. Tôi cảm nhận thật rõ, mẹ đã gieo vào tâm hồn tôi những hạt giống thật đẹp của cây yêu thương và vị tha như thế nào.
Ngày qua ngày, cứ từ những “quy tắc” và việc làm “nho nhỏ” như thế, mẹ giữ được cho tôi gần như trọn vẹn tuổi thơ với những gì đầm ấm nhất của một gia đình.
Trong căn nhà nhỏ ấy, ở góc này, góc kia vẫn còn nhiều khó khăn, nhưng tuyệt nhiên không có bóng dáng của sự thù hận bởi vì như mẹ vẫn nói, điều đầu tiên con cần phải học không phải là cách chống đỡ với cuộc sống này, mà là cách yêu thương và tha thứ cho nó.
Và cũng ở trong căn nhà nhỏ ấy, tôi biết, có ba tâm hồn thật bình yên.
“Thư ký nhỏ” của má
Lần đầu tiên tôi nhận được thư má sau hai năm vào thành phố học đại học. Ẩn hiện sau những dòng chữ xiêu vẹo mới chạy đến nửa trang giấy vở đã kiệt sức là hình ảnh má tôi gầy gò, chông chênh mỗi bước ra vô.
Việc viết một lá thư khó khăn với má biết nhường nào! Vì chữ nghĩa ít, vì ý tứ không nhiều và còn vì cả đôi tay xương xẩu cứ run lên ngượng nghịu mỗi lần cầm đến cây bút. Tôi hiểu lắm, nhưng lâu lâu, lại thầm ghen tị với mấy đứa bạn cùng phòng khi chúng nhảy cẫng lên, vung vít lá thư nhà.
Khi tôi còn học tiểu học, anh đã là sinh viên. Nhớ anh. Má hạ quyết tâm viết thư. Tôi lon ton lấy cuốn tập, cây viết bi, kê chiếc bàn nhựa rồi đứng sau lưng má . . . đọc lén. Ngày ấy, tay má chưa run nhưng chữ nghĩa không chịu chạy ra giấy. Viết được vài chữ, má lại che miệng cười, lại gạch bỏ. Lá thư dở dang những nỗi nhớ . . . Cuộc đời má hiền lành, “khoai sắn” đến mức ngay cả việc viết một lá thư cũng là cái gì đó hơi xa xôi.
Hôm sau, tôi làm “thư ký nhỏ” cho má. Vừa gấp những chiếc bao giấy lớn để bán cho mấy bà, mấy chị đựng bột, đựng đường, má vừa tủm tỉm đọc cho tôi viết. Tôi hì hục gạch, xóa, xé . . . mất nửa ngày trời thì lá thư hoàn thành. Má con tôi tự hào xem đó là cả . . . một kỳ tích!
Tôi vào đại học, em út hiếu động, không đủ kiên nhẫn làm “thư ký nhỏ” cho má. Có lần, nó hẹn tôi trên mạng rồi cót két chở má ra điểm truy cập Internet. Rủi quá, webcam trục trặc, ngồi hoài mà không thấy mặt tôi trên màn hình như bé út hứa. Má một hai đòi nó chở về nhà để “Viết thư cho mau thấy”.
Áp thư má vào ngực. Ngày xưa của “thư ký nhỏ” lại thổn thức trở về trong tôi .
ST
Chiều thu
Tôi đi trên phố thu. Những chiếc lá vàng chao liệng, chạm nhẹ vào áo như tình tự. Đi trong không khí đặc sệt hương ngọc lan, nghe gió mùa thu thổi qua vai và tóc. Nghiêng vai đếm bước chân mình dội lên từ mặt đường xa vắng, rồi trôi đi trong bình yên.
Những ngôi nhà cổ khuất chìm sau rặng cây, âm thầm như cố thu mình trong góc tĩnh lặng nhất. Sầm sập không khí của một buổi chiều thu, một buổi chiều muộn màng.
Tôi đã chờ đợi trên những chặng đường dài. Đôi lúc ngoảnh lại, thấy gương mặt trẻ con của mình hiện ra với mồ hôi nhễ nhại. Mỗi lần như thế, lại thấy lòng mình chông chênh với ý nghĩ tất cả đã xa rồi, tuổi thơ, những kỷ niệm và hương ngọc lan tít tắp. Mẹ vẫn bảo tôi là đứa bị ám ảnh của quá khứ, với những nỗi buồn đeo đuổi mình suốt quãng thời gian dài. Tội nghiệp lắm! Còn tôi thì không hiểu như thế có tội nghiệp không, bởi tôi biết sống với quá khứ cũng là niềm hạnh phúc. Đâu phải người ta chỉ có hiện tại và tương lai.
Ngày nhỏ, chiều chiều, cha hay dắt tôi dạo phố. Đi giữa hai hàng cây, vắng thưa lá qua những đợt gió thu như trút xác. Thi thoảng, vài chiếc lá khô cố nhấc mình khỏi mặt đường đầy bụi, chạy lăn tăn đuổi nhau trên hè. Cha bảo đó là chúng đang chơi trò đuổi bắt. “Đuổi đến bao giờ hả cha?”. “Đuổi đến khi chúng kiệt sức. Con đường của lá không có điểm kết thúc bao giờ”. Cha cười, xoa đầu tôi, rồi cài trong vành tóc tôi một bông ngọc lan thơm ngát. Ấn tượng của tôi về mùa thu không phải là những con đường hoa sữa mà là hương ngọc lan cha đã trao cho tôi, ngay cả khi cha đi rồi.
Cha đi. Mùa thu buồn heo hắt. Những chiếc lá xác xơ nằm trên con đường không thiết đuổi nhau. Tôi mang giá vẽ tới những nơi cha đã dắt mình qua, tìm lại hình ảnh của những ngày hạnh phúc. Mẹ không thích tôi vẽ, mẹ bảo chẳng có gì chờ đợi tôi ở đó. Còn tôi thì biết chỉ có đi trên những dãy phố mùa thu mới tìm lại được cảm giác bình an cho riêng mình. Tôi nói với mẹ điều ấy. Mẹ khóc. Mẹ nói cha cũng đã nói với mẹ điều ấy. “Chỉ có đi bên em với mùa thu, anh mới thấy mình hạnh phúc”. Vậy mà bây giờ mùa thu, cha đi không về nữa. Mẹ bảo mẹ đã không còn là niềm hạnh phúc của cha. Tôi nhắm mắt lại, có những điều tôi không hiểu bao giờ.
Tôi dắt xe đi trên phố thu. Lỉnh kỉnh trong giỏ những bút và giá vẽ. Tìm một gốc cây cũ, đã già lắm rồi, làm điểm tựa. Nhìn lên bầu trời, xanh ngăn ngắt một màu huyền diệu. Vài chiếc lá khô bứt mình đậu vào lòng tôi, nằm ngoan như đang ngủ. Loáng thoáng đâu đó, hình ảnh cha dắt tay tôi đi trên phố cũ một chiều thu, một buổi chiều muộn màng.
Hoàng Lan Anh
Hạnh “đậu hũ” vào đại học
TTCN - Việc bốc vác, chạy bàn quán ăn, làm gia sư... trong cùng một ngày quả là quá tải so với thân hình bé nhỏ chưa tới 36kg của Bùi Thị Bích Hạnh. Vậy mà để nuôi ước mơ cháy bỏng được bước vào đại học, Hạnh không nề hà công việc nặng nhọc, thức khuya, dậy sớm... và cô bé ấy hai lần đậu đại học.
Kỳ tuyển sinh đại học năm 2004, cô học trò lớp chọn 12A2 Trường THPT Vị Thanh (Hậu Giang) Bùi Thị Bích Hạnh đã trúng tuyển vào ngành kỹ thuật môi trường của Trường ĐH Cần Thơ.
Cầm tờ giấy trúng tuyển trên tay, Hạnh và ba mẹ đã rơi nước mắt vì sung sướng nhưng rồi niềm vui đã chóng qua và nhường lại cho nỗi lo về khoản học phí 900.000 đồng cho lần nhập học này là quá lớn so với đồng tiền ít ỏi mà mẹ Hạnh kiếm được bằng nghề bán xôi bắp dạo trên sông. Nhìn người mẹ nhọc nhằn chạy bệnh cho ba, dầm mưa dãi nắng cả ngày chỉ kiếm được 10.000 -15.000 đồng, Hạnh ứa nước mắt, gác lại ước mơ của mình để giảm bớt gánh nặng đang oằn trên đôi vai còm cõi của người mẹ.
Ngày các tân sinh viên háo hức bước vào giảng đường đại học thì cô học trò nghèo ấy đứng lặng lẽ ở một góc khuất gần trường dõi theo các bạn mà không sao ngăn nổi những dòng nước mắt. Ngay hôm đó, Hạnh quyết định xin ba mẹ cho ở lại Cần Thơ tìm việc làm và nuôi ước mơ “năm sau vào đại học”! Hạnh chạy đôn chạy đáo khắp nơi để tìm việc làm thêm. Lúc đầu Hạnh xin vào rửa chén cho một quán ăn gần nơi trọ, kiêm luôn khâu xách nước, rửa rau... chỉ để đổi lấy hai bữa cơm hằng ngày. Sau đó dành dụm được một ít tiền Hạnh mượn nồi của một người quen để luộc hột vịt lộn bán mỗi tối ven đường Ba Tháng Hai. Công việc nặng nhọc khuân vác, kiểm hàng bánh kẹo... trong đêm Hạnh cũng từng trải qua.
Lúc đầu gặp bạn bè Hạnh cũng ngài ngại. Những lúc ấy, cô lại nhớ đến lời ba: “Đừng để sĩ diện nhất thời mà làm tan biến cả ước mơ... Nhà mình nghèo nên càng phải phấn đấu nhiều hơn nữa, không được đầu hàng số phận, năm nay không được thì năm sau vậy!”, Hạnh càng quyết tâm hơn. Hạnh tâm sự: “Mình làm để kiếm tiền đi học có gì xấu đâu mà ngại. Giờ thì cảm giác đó đã không còn nữa rồi, trái lại mình còn coi đó là niềm tự hào...”.
Khu nhà trọ trong hẻm 195 đường Ba Tháng Hai, quận Ninh Kiều, TP Cần Thơ lúc này đã 21g, cô bé đang bận làm gia sư. Sau buổi dạy, Hạnh còn tiếp tục đi đến một nơi khác để kịp kiểm và lên hàng bánh kẹo.
Khi những cánh cửa nhà trong thành phố đã khép lại thì lúc đó Hạnh mới lon ton đạp xe về nơi trọ. Chiếc xe đạp này là của cô bạn cùng phòng. Ban ngày Hạnh vẫn duy trì các công việc rửa bát, chạy bàn quán ăn, bán thuốc lá.
Nhìn Hạnh ngày một gầy đi vì vất vả, khuya về nhà lại ôm quyển sách và cuốn tập bên người ngồi mày mò học, nhiều người cũng cảm thấy lo lắng cho Hạnh: “Gia cảnh khốn khó thế này, có đậu được vào đại học thì chưa chắc gì có tiền để học. Còn bươn chải với cái ăn, cái ở suốt cả ngày còn đâu thời gian mà học...”.
Đi làm về, Hạnh ăn vội ít cơm là lao vào học. Và mùa tuyển sinh năm 2005, cô học trò nghèo ấy đã đậu đại học, ngành sư phạm sinh Trường ĐH Cần Thơ.
“Thấy Hạnh hiền lành, siêng năng nhất xóm trọ, tui nhờ Hạnh dạy kèm cho bé Trúc Anh, con gái của tui hiện đang học lớp 6. Chỉ kèm độ hai tháng nay nhưng con bé tiến bộ thấy rõ, tui cũng muốn con mình học cái tính chịu khó và ý chí vươn lên của Hạnh...” - chị Ba Láng, mẹ của bé Trúc Anh, khi nhắc đến Hạnh đã nói như thế.
Hồng Anh, cô bạn cùng phòng với Hạnh, nói với chúng tôi: “Tụi em đặt cho Hạnh cái tên là Hạnh “đậu hũ” vì mỗi lần đi chợ bạn ấy thường chọn mua món đậu hũ cho đỡ tốn kém. Hạnh thường bảo rằng món đậu hũ vừa ngon vừa bổ dưỡng lại rất rẻ”.
Bà Sánh, chủ doanh nghiệp tư nhân Lâm Nguyễn trên đường Ba Tháng Hai, quận Ninh Kiều, nơi Hạnh làm thuê, nhận xét: “Tội nghiệp, nhà nghèo nên phải tự bươn chải để kiếm tiền vào đại học. Nhìn con bé chưa được 36kg ngồi tỉ mỉ kiểm tra hàng, khuân hàng trong đêm để kiếm tiền lo việc học khiến người trông thấy không khỏi se lòng”.
Viết cho con
Niềm vui của mẹ
TTO - Khi chị Hai con lên sáu thì con cũng bắt đầu rục rịch trong bụng mẹ. Siêu âm biết con là con trai, mẹ mừng không sao tả được.
Đêm đó, ba và mẹ thức gần suốt đêm. Cũng từ đó, con có cái tên gọi ở nhà là “Happy” cho đến tận bây giờ.
Happy của mẹ khi sinh ra chỉ nặng 2,8 kg nhưng trông kháu khỉnh và lanh lợi lắm. Con dễ ăn uống và dễ ngủ nên mẹ nuôi con cũng khá đơn giản, không phải cực như chị Hai. Vì là con trai nên con rất hiếu động, thích tìm hiểu mọi vật quanh mình.
Có lần, mẹ đã hết hồn vía vì cái tính hiếu động ấy của con. Khi ấy con mới 20 tháng tuổi. Vào một buổi sáng, sau khi đi chợ về, mẹ quên khóa cổng nhà mình và sau đó vì mải mê chuẩn bị bữa ăn nên không để ý đến con. Khoảng vài phút sau không thấy con đâu, cả nhà hốt hoảng chạy đi tìm. Đứng ngoài ngõ nhìn về hai hướng chẳng thấy con, mẹ hoảng sợ chực khóc.
Như có điều gì mách bảo, mẹ chạy vội vào ngõ hẻm cách nhà mình vài chục mét. Hai bóng dáng nhỏ nhắn lướt qua mẹ. Mẹ dừng lại nhìn. Con đang đứng sát một bạn gái trạc tuổi mình, con choàng tay qua vai bạn ấy, kéo bạn về phía con và… hôn! Mẹ nhào đến bên con, mắt nhòe lệ. Ba “sạc” mẹ một trận ra trò. Hú hồn! Từ đó về sau, dù bận bịu làm gì mẹ cũng tranh thủ trông con và không bao giờ quên khóa cổng.
Mới đó mà giờ đây con đã được bốn tuổi rồi, con đã vào học lớp chồi. Cô giáo rất thương con vì con ngoan và học giỏi. Hôm nào con bệnh phải nghỉ học là hôm sau con nằng nặc đòi đi học vì: “Con nhớ cô và các bạn quá!". Gặp người lớn con chủ động vòng tay chào, không đợi ba mẹ nhắc, và trả lời rành rẽ các câu hỏi của người lớn, dù giọng còn ngọng nghịu. Mọi người thường khen con và ba mẹ rất tự hào về điều này.
Con rất có ý thức giúp mẹ làm việc nhà, mỗi khi thấy mẹ cặm cụi dọn dẹp, con hay hỏi: "Sao mẹ làm cực quá vậy mẹ?". Rồi con giành chổi từ tay mẹ để quét nhà, hoặc phụ mẹ úp bát đĩa. Con rất thương chị Hai con. Có lần, ba đánh chị Hai về tội lười học, con đứng gần đấy, khóc sướt mướt, luôn miệng kêu: "Đừng đánh chị con nữa mà!".
Tết vừa rồi, giao thừa xong, con cầm bao lì xì đưa cho mẹ, giọng đớt đát: “Năm mới, con chúc mẹ mạnh khỏe, viết nhiều báo!”. Mẹ nhìn con sững sờ. Không ai dạy con điều này cả. Có lần, trước khi ngủ, con vòng tay ôm mẹ, giọng thì thầm: “Mẹ ơi!”. Mẹ nhìn con: “Gì con?”. Vẫn giọng nói còn đớt đát của con: “Con thương mẹ”. Mẹ âu yếm nhìn con: “Vì sao vậy?”. “Tại mẹ hiền!”.
Ôi, con trai yêu quý của mẹ, mới chừng ấy tuổi đầu mà con đã biết thương mẹ, biết giúp đỡ mẹ, nghe lời cô, nhường nhịn bạn. Chắc chắn lớn lên con sẽ là một chàng trai giàu lòng yêu thương và nhân hậu.
Đêm nằm, mẹ thầm cảm ơn cuộc đời này cho mẹ có con - niềm yêu thương, niềm vui và hạnh phúc của cả nhà mình.
Cạnh tranh
Hồi mà tôi thích tranh đua với các anh các chị tôi. Nếu mẹ tôi bảo: “Các con giúp mẹ dọn chén đũa ra, chuẩn bị ăn cơm", thế nào tôi cũng ba chân bốn cẳng chạy trước tới tủ chén để giữ chỗ.
Nếu cha tôi nhờ lấy hộ ông cái khăn lau mặt thì y như rằng trong 10 lần có tới 8 lần sợi dây treo khăn bị đứt phựt. Chẳng qua vì tôi láu táu xô đẩy các anh chị và dù thấp bé tôi cũng cố nhảy lên giành lấy trước. Nếu chạy không kịp tôi giở ngón võ quen thuộc là hai tay dụi mắt gào thảm thiết như con heo bị chọc tiết. Thế nào các ông anh bà chị tôi cũng bị cha mẹ tôi la rầy vì "tội" không nhường em. Cảnh nhà tôi lặp lại ở muôn nhà khác.
Cứ thế tôi - và chúng tôi - lớn lên. Tôi hình dung đời như một cuộc chạy đua, thế vào chỗ các anh chị tôi là vô số những người đang sống quanh tôi. Thế rồi đến một ngày.
Tôi lên tỉnh học. Sau mấy giờ ngồi tê chân trên xe đò, tôi nhấp nhổm trên ghế khi xe chạy chầm chậm vào một bến giữa đường. Nghiến răng đứng trên hai chân đau tê cứng, lách qua mọi người, tôi nhảy vọt ra cửa, mong xuống trước kiếm chỗ nghỉ cho yên thân. Nhưng trong xe, ai cũng rùng rùng đứng dậy dù xe vẫn còn lăn bánh. Người ta lôi đồ đạc từ trên giá, từ dưới gầm ghế. Ông nọ quăng một bao to tướng lên vai, bà kia cắp nách một chiếc thúng nặng. Mặc kệ, tôi cứ càn qua, cố chen ra cửa, kệ người phụ xế la hét yêu cầu hành khách ngồi yên.
Cuộc chen lấn của tôi thất bại. Không phải vì tôi không khỏe mà vì dòng người chen ngược từ dưới đất lên xe. Người đâu mà đông thế! Cũng bao gói lỉnh kỉnh đeo quanh người. Xe vẫn chạy nhưng họ sống chết bám theo để nhảy lên, người nọ níu áo người kia chen lấn. Lúc này, hai cánh tay của tôi đâm ra bất lực, nó không còn đủ sức để gạt những khối thịt hừng hực mồ hôi đang ép tôi. Bao gói giỏ xách đè lên đầu tôi.
Lẫn trong đám người hỗn loạn, tôi nghẹt thở. Tôi đã thoáng có ý nghĩ không biết còn có dịp trông thấy cha mẹ lần nữa hay không! Trong giây phút tuyệt vọng ấy tôi chợt nhớ tới chuyện xưa, lúc tôi tìm đủ mọi cách để chen lấn các anh các chị : Tôi ước ao giá như lúc ấy cha mẹ tôi, cũng như biết bao bậc làm cha làm mẹ khác, công bằng hơn có lẽ chúng tôi không lâm vào cảnh đau khổ như tôi.
Nhớ ký túc xá
Ký túc xá trong ký ức của mỗi người là chiếc giường tầng nhỏ xíu mà chỉ một cái trở mình, một tiếng thở dài của người ở giường trên cũng khiến người giường dưới thức giấc theo, là cái nhà tắm công cộng mỗi chiều về lại phải xếp hàng dài chờ đợi, là cái bếp ăn tập thể mà mỗi lần và cơm vào lại thấy nghèn nghẹn ở cổ, rồi chợt thèm đến cồn cào món canh chua cá lóc má hay nấu hồi còn ở nhà.
Ký túc xá trong ký ức của tôi là những người bạn mà có lẽ có thắp đuốc đi tìm suốt cuộc đời này cũng khó lòng gặp được. Họ, mỗi người một vùng quê, một hoàn cảnh, một cá tính, một cách thể hiện tình yêu thương riêng, chỉ có mẫu số chung là nghèo. Tình cảm trong khó khăn hóa thành hạnh phúc.
Hạnh phúc chỉ đơn giản là những đêm học khuya cả phòng mười hai đứa cùng chúi đầu vào thau mì tôm, nhường nhau từng sợi mì, cãi nhau chí chóe. Hạnh phúc là mỗi khi nhớ nhà có người ôm bạn vào lòng và cùng bạn khóc một trận cho thật đã. Hạnh phúc đơn giản là khi buồn bã, chán nản nhất, có người luôn sẵn sàng lắng nghe và chia sẻ nỗi nhọc nhằn ấy cùng bạn. Hạnh phúc là một đêm khuya khoắt giật mình tỉnh dậy giữa cơn sốt cao, bạn thấy họ vẫn ngồi xung quanh giường bạn với đôi mắt thâm quầng lắng sâu những lo âu. Hạnh phúc là khi bạn quyết định rời ký túc, rời xa họ, họ đã khóc rất nhiều nhưng không giữ bạn lại vì họ biết bạn đang đi tìm một cuộc sống mới, sinh động hơn cuộc sống ký túc.
Sáng nay lại một lứa tân sinh viên mới vào ký túc. Nhận phòng rồi mà mãi chàng trai trẻ vẫn không chịu buông cái nón lá để người mẹ đi cho kịp chuyến tàu về quê. Còn cô bé vừa mới hứa với mẹ không khóc nữa, vậy mà mẹ vừa bước ra khỏi cửa là nước mắt chảy dài. Chẳng có gì phải sợ hãi, lo âu cả đâu vì chỉ ngày mai đây thôi các em sẽ được gặp những người bạn tuyệt vời nhất. Một tình bạn ký túc xá với những hạnh phúc đơn sơ mà nồng ấm đang đợi ta phía trước, và có thể sẽ theo ta đến suốt cuộc đời.
Yên Thảo
Mái ấm phía sau
Hơn mười năm sống ở thành phố theo kiểu cái gì cũng có vẻ tạm bợ. Thuê một căn phòng nhỏ để tối về có chỗ ngả lưng. Chuyện ăn uống lại càng đơn giản hơn : siêng thì nấu một lần ăn hai bữa, lười thì bạ đâu ăn đó, đôi khi một ổ bánh mì cũng xong bữa.
Đã lâu lắm rồi mình không còn cảm giác thưởng thức cái không khí yên ấm của gia đình, đúng hơn điều đó dần đi vào quên lãng trước dòng chảy miệt mài của cuộc mưu sinh.
Tối nay, sau một ngày làm việc mệt nhoài, ngả phịch lưng xuống giường. Bỗng mơ hồ nhớ quá một điều gì đó. Bật dậy, cầm máy gọi về nhà. Giọng mẹ thoáng vẻ hoảng hốt :
- Có chuyện gì mà gọi về khuya vậy con?
Vẫn giọng nói ấm áp và trìu mến, vẫn vẻ lo lắng như bao lời dặn dò trước mỗi lần tiễn con trở lại thành phố. Cười nũng nịu: "Con nhớ mẹ!". Mẹ mắng yêu: “Lớn rồi, nghỉ đi con, mai còn có sức làm việc.”
Ngủ rất ngon khi chợt nhớ phía sau mình còn có một mái ấm.
Con tự hào về ba
Ngày con đậu đại học, cả dòng họ không ai đến chúc mừng cả. Ai cũng cho rằng con trèo cao, ai cũng cho rằng con dại dột, nghèo mà cũng bày đặt học ĐH. Con buồn lắm, chỉ muốn ở nhà đi làm phụ ba má nuôi các em.
Nhà mình nghèo lắm phải không ba? Con hỏi ba như vậy, ba bảo rằng không đâu con gái. Nhà mình có cả một gia tài, đó là các con, và ba có những thứ rất quý - các con học giỏi. Con lúc ấy nghĩ rằng có lẽ vì ba quá thương tụi con nên nói thế. Ba bảo con rằng “hãy cố gắng đi hết con đường mà con đã chọn, hãy thực hiện ước mơ của mình. Vì không ai có thể lớn lên nếu người đó không biết ước mơ”. Ba biết con gái ba muốn trở thành một nhà báo - cái ngành mà người ta bảo không thời thượng vì nó lận đận long đong.
Rời quê lên thành phố học, mọi thứ đối với con lạ lẫm lắm. Ba viết thư cho con - nét chữ run run, mùi khét nắng trong từng nét bút: “Con ạ, đường con đi còn dài lắm, bao khó khăn vẫn ở phía trước, hãy cố gắng con nhé. Nếu vấp ngã hãy đứng dậy và đi tiếp. Sau mỗi thất bại con gái của ba sẽ lớn hơn, trưởng thành hơn”. Nhưng con sợ một lúc nào đó con ngã và không thể đi tiếp, con sợ sẽ làm buồn lòng ba mẹ. Con viết thư về nhà và nói như thế phải không ba. Nhưng ba đã nói rằng “Nếu một lúc nào đó mệt mỏi và không thể đi tiếp, con hãy quay về con nhé, hãy về với gia đình”.
Vâng ba ạ, Sài Gòn ồn ào vội vã đi qua, con gái ba giờ đã là cô sinh viên báo chí năm ba. Con gái ba tuy chưa làm được gì cả nhưng ba vẫn luôn khích lệ con gái. Con vẫn có một niềm tin mãnh liệt vào tương lai vì sau con có luôn một gia đình chờ đợi con, yêu thương con. Con biết mình có một thứ rất quý giá - gia đình. Con chưa bao giờ nói với ba điều này: Con yêu ba rất nhiều và con tự hào về ba. Ba chỉ là người nông dân quê mùa, chất phác nhưng ba lại là người thầy lớn nhất của con, ba nghèo khổ nhưng ba lại cho con tất cả những gì quý nhất.
Những lời ba dạy con luôn khắc ghi trong lòng, đó sẽ là hành trang cho con vào đời: hãy ước mơ và dám thực hiện ước mơ. Con chỉ cầu mong sao cho những sợi tóc bạc thôi đừng bạc nữa, những nếp nhăn thôi xin đừng nhăn và thời gian ơi xin đừng vô tình trôi. Con mong sao ba sẽ sống với con cho đến khi con thực hiện trọn vẹn ước mơ của mình, ba ơi!
Dừng lại một chút...
Nỗi đau chuyện tình dang dở còn đang loang lở trong lòng, lại thêm kẻ gian lừa lấy lấy sạch giấy tờ, tiền bạc của một năm làm công cắc ca, cắc củm dành dụm chuẩn bị mang về quê cho mẹ trả nợ.
27 tết, tôi trở thành người tứ cố vô thân, không người thân, không bạn bè, không giấy tờ tùy thân, không tiền bạc ngoài bộ đồ đang mặc trên người và chiếc xe đạp đang đi.
Tôi vừa đạp xe, vừa đi, vừa khóc như một kẻ vô hồn chẳng biết đi đâu, về đâu. Trong đầu tôi chẳng còn nghĩ được gì ngoài cái chết đang lởn vởn trước mặt. Mãi suy nghĩ tôi tông vào một người phụ nữ đi xe máy. Chẳng buồn xin lỗi, tôi dựng xe đứng dậy đi tiếp. Người phụ nữ cũng nổ máy xe chạy theo sau tôi “ Có chuyện gì xảy ra với em vậy?”. Im lặng. Ngay người mà tôi yêu thương và tin tưởng nhất giờ cũng lừa dối, bỏ tôi mà đi thì thử hỏi trên đời này tôi còn có thể tin ai được nữa?
Người phụ nữ vẫn kiên trì chạy xe chầm chậm song song bên tôi. Ngoài bộ đồ trên người và chiếc xe đạp rách tôi có còn gì nữa đâu mà đi theo? Mặc kệ bà ta. Tôi đạp xe đi vòng vèo qua các con phố và dừng lại trên cầu Sài Gòn. Chút nữa thôi, dòng nước đen ngòm này sẽ nuốt chửng lấy tôi. Vĩnh biệt cuộc đời này! Một bàn tay chộp lấy vai tôi. Tôi quay ngoắt lại. Người phụ nữ ấy! “ Tối rồi, em về nhà đi. Con gái, một mình đứng ở đây không tốt đâu?”. Bao nhiêu ấm ức, dồn nén bây giờ có dịp vỡ tung, tôi oà lên nức nở, kể lể. “ Em chết là hết nhưng còn mẹ em, bà có chịu nổi không khi bao nhớ thương chờ đợi, đón em trở về là một cái xác chết?”. Người phụ nữ mở xách giúi vào tay tôi mớ tiền lẻ: “Chị chỉ còn chừng này,em cầm ra mua vé xe về nhà với mẹ. Bà đang rất nóng lòng chờ em ở nhà đấy. Chúc em một cái tết vui vẻ cùng gia đình”. Tôi như bừng tỉnh, chưa kịp cảm ơn thì người phụ nữ đã lên xe mất hút trong dòng người tấp nập trên phố.
Đã bao lần tôi cố công tìm kiếm nhưng chưa một lần gặp lại người phụ nữ ấy. Bài viết này như một lời cảm ơn người phụ nữ tôi chưa được biết tên ấy, người không chỉ cho tôi sự sống mà còn giúp tôi tin rằng cuộc đời này vẫn còn rất nhiều người tốt xung quanh. Bạn bè bảo tôi “bao đồng”, “ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng” hết lo cho người này, lại an ủi người kia nhưng từ chị, tôi đã học được rằng chỉ cần dừng lại một chút, bớt chút thời gian quan tâm, chia sẻ với những người xung quanh tôi đã được rất nhiều! “Gieo yêu thương bạn sẽ được yêu thưong”.
Có bao giờ...
Có bao giờ...
Bạn đến bên bà lão đang lúng túng trước làn xe đông đúc, nắm lấy tay bà và nói: “Bà để cháu dẫn qua đường nhé!”. Bà lão mỉm cười. Khó khăn bon chen giữa cuộc đời bỗng nhẹ nhàng hơn.
Có bao giờ...
Bạn chia sẻ những mẩu bánh kem - món quà sinh nhật của bạn - với những đứa trẻ lang thang đen đúa ở ven đường. Hôm sau, khi bạn bất chợt đi qua, những đứa trẻ réo gọi tên bạn và vẫy tay chào. Nỗi cô đơn giữa đất khách quê người của đứa con gái ở trọ chốn Sài thành chợt tan biến.
Có bao giờ...
Bạn lễ phép chào bác giữ xe, cô lao công ở trường. Thoạt đầu cô lao công và bác giữ xe đều nhìn bạn ngạc nhiên. Nhưng rồi vài ngày nữa, bạn đang buồn rầu vì một điểm số kém, bất chợt cô lao công rồi cả bác giữ xe gọi bạn lại: “Bị điểm kém hả bé? Thôi, đừng buồn nữa…”. Tự nhiên khóe mắt bạn bỗng cay cay. Thật hạnh phúc khi trong cuộc sống có được người quan tâm đến mình!
Có bao giờ...
Bạn hỏi thăm sức khỏe một cô gái ăn mặc diêm dúa, làm cái nghề bị xã hội rẻ khinh. Cô gái ấy ngước lên nhìn bạn, đôi mắt lạnh lùng thường ngày chợt ánh lên niềm vui, đôi môi khô héo bỗng tươi như đóa hoa hồng: “Cảm ơn em! Chị chỉ bị cảm nhẹ thôi...”. Bạn có tin không nhỉ, sự quan tâm thật lòng của mỗi người chúng ta có thể xoa dịu, cứu rỗi được những tâm hồn đang bơ vơ lạc lối?
Có bao giờ...
Bạn quay lại trường xưa. Khoanh tay, thẳng người cúi đầu chào thầy cô giáo cũ như thời còn là đứa học trò tiểu học. Bất chợt, thấy một đứa học trò nhỏ của thầy hay cô chạy đến mếu máo: “Bạn N. lấy thước đánh đầu con...”.
Bạn bật cười, nhớ lại thời xưa cũng từng “quấy rầy” thầy cô bằng những lý do lặt vặt: mẩu bút chì, viên phấn… Nét bé bỏng trẻ thơ với thầy cô lúc nào cũng đáng yêu như vậy!
Và có bao giờ...
Bạn sẽ đọc được những điều này và bảo ngay: “Những cái “bao giờ” này tôi đã từng “có” rồi!”. Lúc đó, có lẽ sẽ mỉm cười và cuộc đời cũng đang mỉm cười với bạn...
DƯƠNG THỊ BẢO THỦY
Ngày của mẹ
Cậu bé mồ côi cha, lớn lên trong vòng tay yêu thương của mẹ và bằng những đồng tiền kiếm được từ shop hoa tươi nhỏ bé, nguồn thu nhập chính của gia đình.
Ngày ngày, mỗi lần đến shop hoa của mẹ chơi, cậu bé thích thú khi được mẹ giảng giải về ý nghĩa các loài hoa, cũng như khi mẹ kể về những cách tặng hoa đặc biệt của các chàng trai dành cho các cô gái trong những ngày lễ.
Rồi theo thời gian, cậu bé lớn lên đã biết galăng trước những bạn nữ trong lớp, đã biết rung động trước một đôi bím tóc xinh xinh và vì thế biết vòi vĩnh mẹ làm những bó hoa thật đẹp làm vui lòng các bạn nữ trong ngày lễ.
Chiều nay, ngày 20-10, cậu bé trở về nhà sau cuộc vui chơi mệt mỏi cùng bè bạn, ngạc nhiên khi thấy mẹ đang cẩn thận treo ngược một bó hoa hồng lên tường, cách làm quen thuộc để giữ hoa khô.
- Hoa của chú Hùng, bạn cũ thời trung học của mẹ tặng đấy - Mặt người mẹ rạng ngời hạnh phúc khi kể cho đứa con trai nghe.
Tròn mắt nhìn mẹ, cậu buột miệng:
- Ngày nào mẹ cũng ở trong shop hoa mà vẫn thích được tặng hoa à?
- Hoa tặng khác hoa bán chứ! Mà cũng lâu rồi mẹ mới được tặng hoa ngày lễ mà…
Dáng người mẹ cặm cụi gói những bó hoa sáng nay chợt hiện ra trong đầu cậu bé. “Hôm nay, mình đã nhờ mẹ gói hoa tặng cho biết bao người. Vậy mà…”. Khoé mắt cay cay, cậu bé vụt chạy ra khỏi nhà. Đã gần 10h tối nhưng chắc chắn sẽ vẫn còn những shop hoa tươi mở cửa.
Ngày vẫn chưa hết và mọi chuyện vẫn chưa muộn!
DƯƠNG THỊ BẢO THỦY
Qua bờ ruộng nhỏ
Tôi chở em một đoạn, rồi đành dắt xe đạp theo chân em. Ở trong lớp em chậm chạp, rề rà bao nhiêu thì giờ đây em nhanh nhẹn, thoăn thoắt bấy nhiêu. Hai cô trò cứ đi như thế, qua hết bờ ruộng này tới bờ ruộng khác, bây giờ tôi mới thấm thía câu: “Bước thấp bước cao qua bờ ruộng nhỏ” mấy lần mới tới nhà em. Bao nhiêu dự định của tôi tiêu tan khi tôi bước vào nhà em và gặp mẹ em.
Những cái bờ ruộng quanh co cứ ám ảnh tôi. Con đường đó em phải đi mỗi ngày để tới lớp, vậy mà ngày nào tôi cũng rầy la em vì quần áo em dơ, còn phạt em vì cái tội đi chân không, dính đầy bùn đất. Em chăm học nhưng chậm chạp và hay quên, cộng thêm một chút khù khờ, nếu có người kèm thì cũng hy vọng em lên lớp, mà mẹ em cũng không hơn gì em thì làm sao? Cái chỉ tiêu 100% học sinh lên lớp là thông lệ, là danh dự, là thành tích của trường, có hàng trăm lý do để phải đạt nó. Con đường dễ dàng nhất là âm thầm cho lên lớp, đó cũng là một cách mà bấy lâu nay các đồng nghiệp của tôi đã làm. Có cái gì đó níu kéo tôi, nó giằng xé thật dữ dội, thỏa hiệp hay không? Nếu không thỏa hiệp thì chắc chắn sẽ bị cô lập, bị hất ra khỏi tập thể, bị nhìn như là một phần tử tiêu cực, và có thể sấm sét sẽ giáng xuống đầu mình...
Đầu hè, tôi thuyết phục mẹ em cho em tới ở nhà tôi để tôi dạy kèm. Đó là cách duy nhất để tôi không ray rứt, để tôi có thể dạy học trò của mình về lòng trung thực mà không phải hổ thẹn với chúng. Thỉnh thoảng mẹ em tới thăm em, mang cho tôi những gì chị có: một mớ rau, một ít cá, nải chuối, có khi vài lít gạo... rồi quày quả trở về với việc mưu sinh, người thật thà đến nỗi không biết nói cảm ơn là như thế nào... Những hôm trời mưa dầm, quần áo giặt không kịp khô, tôi cho em mặc quần áo con gái mình. Em trong bộ đồ thùng thình, chơi đùa vô tư với con gái tôi...
Có những chủ nhật mẹ em không tới rước, biết em nhớ nhà, tôi đưa em về thăm. Hai cô trò lại bước thấp bước cao qua những bờ ruộng nhỏ. Nhìn những bước chân của em, tôi bỗng chạnh lòng... Nhưng dù sao, niềm an ủi lớn nhất của tôi là sang năm học mới em có thể lên lớp hai, em có thể học theo kịp các bạn...
Hồng Hoàng
Gót chân của mẹ
1. Mẹ bị viêm khớp. Đôi chân mỗi ngày lên xuống cầu thang hàng chục lần để quét dọn công ty, mỗi lúc tan tầm tất bật buổi chợ chiều, như cỗ máy khô dầu, rã rời và nặng trịch. Những móng chân mẹ thâm sần vì tiếp xúc nhiều với nước, đôi gót chân chai cứng, nứt nẻ. Mùa đông, những vết nứt khô cong, da bong ra từng mảng, rớm máu.
2. Con đi học về, từ đầu đến chân được che kín mít, này nón, khẩu trang, bao tay, áo khoác, vớ, giày... Vừa cởi vớ, con vừa nghĩ đến lọ kem bảo vệ da gót chân mới mua, nhất định tối nay phải dùng ngay.
Từ hôm đọc được trên tờ báo nào đó rằng “một gót chân hồng có sức hấp dẫn không kém một gương mặt đẹp”, con bỗng dưng có thói quen để ý đến bàn chân của mình. Chẳng hiểu sao mấy ngày gần đây, vùng da ở gót chân lại có vẻ khô và hôm qua lại bong ra một mẩu be bé...
3. Mẹ nhờ con xoa chân. Trên bàn chân khô gầy, thô ráp của mẹ, những ngón tay thon được cắt giũa, sơn phết cầu kỳ của con bỗng trở nên kệch cỡm. Đôi gót chân ấy đã dắt con đi những bước đầu tiên, bồn chồn đợi cửa mỗi khi con về trễ… với những bước nhọc nhằn, lo toan; mòn đi theo năm tháng, tại sao đến giờ con mới biết...
CỔ NGỌC TỈNH
Nhật ký cho con
Hàng chục năm ba viết nhật ký, không phải cho ba mà cho con - đứa con gái duy nhất của ba.
Đọc những dòng nhật ký, con mới biết rằng ba đã viết nhật ký cho con từ khi con chưa lọt lòng mẹ - viết trong niềm hạnh phúc tột cùng khi cảm nhận được những cựa quậy và nhịp đập non nớt của trẻ thơ khi còn trong bụng mẹ; viết tất cả những gì xảy ra xung quanh con, truyền vào đó muôn vàn tình yêu thương.
Ba viết như gửi vào đó bao nhiêu mong muốn sau này khi lớn khôn con có thể hình dung mình đã lớn lên từng ngày và được yêu thương ấp ủ thế nào...
Rồi con lớn lên một chút. Tấm hình đầu tiên chụp con khiến ba sung sướng mỉm cười cả ngày bởi nét thơ ngây con trẻ. Khi con sốt, đọc nhật ký con biết ba đã lo lắng không thể chợp mắt suốt đêm dài. Ba đã lưu lại hết những lời chúc tốt đẹp mừng con trong ngày đầy tháng, thôi nôi, sinh nhật... đặt vào tập nhật ký. Tất cả tuổi thơ con ba chắt chiu vào từng trang viết.
Khi còn bé, con tự hào với bạn bè vì quyển nhật ký độc đáo ấy. Lớn lên, trưởng thành; mỗi lúc khó khăn, vấp ngã dọc đường, con đã lấy tập nhật ký ba viết, đọc và cảm nhận tình yêu thương của ba mẹ dành cho mình để lấy đó làm nguồn sức mạnh vô biên theo con mỗi bước...
HOÀNG YẾN
Đèn dầu
“Ai mua đèn dầu không?”
Nghe tiếng rao của người bán đèn dầu, mọi người quay lại nhìn và cười “Thời buổi này ai mà xài đèn dầu nữa”. Nhưng rồi cũng không ai bận lòng thêm. Người ta nói rồi quên, cũng là điều bình thường.
Người bán đèn dừng xe cạnh bức tường có chút bóng mát, thở dốc. Phía yên sau xe đạp của ông, những chiếc đèn dầu được xếp ngay ngắn, có vẻ như từ sáng đến giờ, chúng vẫn nằm yên như thế. Khuôn mặt ông đỏ gay, những giọt mồ hôi trên trán rơi xuống. Có lẽ ông đã ngoài 50 tuổi.
Khi tôi hỏi về những chiếc đèn dầu, ông kể: Ông quê ở miền Trung, mới vào TP gần 1 tháng nay. Ngày nào ông cũng đi bán nhưng có ngày không bán được chiếc nào. Con trai ông năm nay học lớp 9, 2 cha con chỉ dám thuê phần ban công trên gác nhà trọ, chỉ có tấm bạt che mưa che nắng và ngọn đèn dầu là ánh sáng cho họ lúc đêm về. Cậu con trai ban ngày đi bán báo, còn ban đêm đi học lớp bổ túc. Ông bảo: “Nó mơ ước sau này trở thành kỹ sư điện để có thể kéo điện về cho bà con ở quê xài”. Gương mặt của người cha sáng lên khi nói về con trai mình. “Chắc là phải kiếm cái nghề khác mà làm, chứ ở đây không ai xài đèn dầu cả. Ở ngoài nớ chừng ni tui bán một ngày là hết”. Ông buồn buồn nhìn những cây đèn chưa vơi được chiếc nào. “Cực khổ mấy cũng phải ráng cho thằng nhỏ học hành đến nơi đến chốn, để cái nghèo bám theo hoài thì khổ lắm. Thôi tui đi, trưa rồi”. Ông cám ơn tôi một lần nữa rồi tiếp tục đạp xe đi.
“Thời buổi này ai mà xài đèn dầu nữa”. Người qua đường vẫn vô tình như thế. Nhưng họ không biết được rằng có một người cha nhọc nhằn từng ngày để nuôi ước mơ cho con, và có một cậu bé từng đêm vẫn đang cố gắng thực hiện mơ ước của mình, bên ngọn đèn dầu...
Tiểu Quyên
Chiếc đai màu tím
Bốn năm trước, một tai họa khủng khiếp đến với tôi. Con gái tôi mất trong một tai nạn giao thông. Nỗi đau xé toạc thể xác và linh hồn tôi.
Trong lúc các anh chị tôi lo liệu tang lễ cho cháu, tôi vật vờ như cái bóng mong manh, chỉ chực biến mất khỏi thế gian đầy khổ đau. Nhưng chính trong những ngày ấy, con trai tôi đã giúp tôi tìm lại hy vọng và nghi lực để sống tiếp.
Tôi có hai con, cháu lớn là trai, cao ráo và mượt mà giống một cây tùng non. Em gái nó xinh xắn, thông minh nhưng hoang dã như bông hoa đồng. Vẫn biết trẻ con hay chành chọe với nhau dù chúng là anh em ruột, nhưng quả thật nhiều lúc tôi đâm ra mệt mỏi và bi quan về cách các con tôi xử sự với nhau. Ít ra vào thời là trẻ con, mấy anh chị em tôi hình như yêu thương nhau nhiều hơn, chia sẻ với nhau nhiều hơn các con tôi bây giờ? Lúc đó chúng tôi không có nhiều thức ăn, quần áo, sách vở, đồ chơi nhưng cũng vì thế việc nhường nhịn nhau dễ hơn chăng?
Con trai tôi học võ. Chiếc đai màu tím là cái gì đó rất thiêng liêng với nó. Cô em gái luôn thèm thuồng nhìn chiếc đai màu tím, còn ông anh cấm tiệt không cho em gái động tới nó. Chiếc đai trở thành nguyên cớ của nhiều cuộc gấu ó và kiện cáo nhức đầu giữa hai con tôi. Đôi khi sự bực bội khiến tôi hối tiếc là đã cho con đi học võ.
Đêm trước ngày cử hành tang lễ, khách phúng viếng đã ngớt, tôi ngồi bó gối bên cạnh con gái, mệt mỏi, với những ý nghĩa sầu thảm quay cuồng trong đầu. Có tiếng chân ngập ngừng, tiếng động nhẹ. ''''Mẹ, ...mẹ..'''', tiếng con trai tôi rụt rè phía sau. Không quay đầu lại, tôi hất tay ra phía sau: ''''Con đi ngủ đi. Mẹ ở đây một lát”.
Sáng hôm sau, ngày đưa con gái tôi tới nơi nghỉ, tôi thất thần nhìn mọi chuyện diễn ra qua bức màn nước mắt. Tôi như một cây gỗ chẳng có phản ứng gì khi người đạo tỳ làu bàu và nhấn vào tay tôi vật mềm mềm, hỏi: ''''Cái gì để đây thế này? Có mang theo không hử?”. Tôi chậm chạp nhìn xuống tay. Phải mất mấy giây tôi mới nhận ra vật đó. Chiếc đai lụa màu tím của con trai tôi. Vậy là đêm qua con trai tôi đã...
Con tim băng giá của tôi đang được sưởi nóng trở lại.
Hàng xóm
Bà cụ mất. Chị tuy giao du rộng nhưng không muốn báo tin cho bạn bè, phần ngại làm phiền, phần ngại nhà chật hẹp không có chỗ đón khách.
Nhà chị nằm trong một ngõ cụt, có mảnh sân chung với các nhà gần bên nhưng kẹt nỗi từ lâu có mấy hộ chiếm dụng sân làm nơi mua bán gánh cháo, gánh bún… lâu dần họ mặc nhiên như chỗ của mình. Lúc đầu chị cũng khó chịu, riết rồi quen. Mỗi bận dắt xe đi phải len lách mới ra được bên ngoài.
Chị suốt ngày ở cơ quan nên quen được chứ bà cụ thì không. Người già vốn khó tính. Ra vào khó khăn lại thêm ồn ào nên bà cụ bực bội hay chửi chó mắng mèo. Biết mình có lỗi và cũng vì bà cụ lớn tuổi nên các bà các cô mua bán kia luôn nín nhịn. Đôi khi bà cụ hơi quá lời hoặc khi họ mua bán ế ẩm thì cũng xảy ra đấu khẩu.
Tối, bà cụ vừa được tẩn liệm thì tang gia đã thấy khách đến viếng. Chị trố mắt nhìn ra cửa mà cứ tưởng mình bị hoa mắt. Bà bán bún riêu áo quần tươm tất dẫn đầu đoàn gồm đủ mặt chủ nhân các gánh chè, gánh cháo... Tất cả đứng trước quan tài bà cụ thắp hương khấn vái thành kính thật sự.
Gần sáng, lẽ ra khu vực sân chung đã bắt đầu huyên náo. Rồi trời sáng hẳn vẫn chưa thấy quang gánh nào bày ra. Không có mua bán, không có những tấm nilông giăng mắc che mưa che nắng, khoảng sân như rộng hơn kích thước của nó.
Chị chưa hết ngạc nhiên đã thấy người mang bàn, kẻ khiêng ghế từ nhà ra sắp xếp giữa sân. Có ai lạ đâu, láng giềng của chị đó, những người hay gây chuyện với bà cụ của chị và không ít lần làm chị khó chịu. Họ gác một bên chuyện mưu sinh để rảnh tay giúp chị.
Chị không báo tin nhưng vẫn có rất đông bạn bè, người quen tới chia buồn. Có người tấm tắc khen nhà ở trong hẻm nhưng có được cái sân rộng rãi, thoáng mát đến thế. Chị không trả lời bởi đang nghĩ đến điều ông bà xưa để lại cho đời câu nói thật hay: “Nghĩa tử là nghĩa tận”.
Cây viết
Năm đó tôi học lớp 7, chú tôi từ Bắc vào thăm. Biết tôi học giỏi, quà chú tặng là một cây viết máy Trung Quốc màu xanh biển thật đẹp. Tôi hãnh diện khoe với tụi bạn trong nhóm.
Các bạn trẻ bây giờ chắc chẳng biết được một cây viết có lúc đáng quí đến dường nào. Đó là vào những năm đầu sau giải phóng, kinh tế khó khăn, hàng hóa tiêu dùng khan hiếm. Viết máy thì đầu ngòi viết hay bị tà hoặc cong vênh, mực xuống không đều, làm tay dính mực lem luốc như học sinh tiểu học. Còn viết bi thì viết lúc được lúc không, lũ học trò hay gọi là “bút bi bị bít”.
Năm đó tôi học lớp 7, chú tôi từ Bắc vào thăm. Biết tôi học giỏi, quà chú tặng là một cây viết máy Trung Quốc màu xanh biển thật đẹp. Tôi hãnh diện khoe với tụi bạn trong nhóm.
Đùng một cái, ngày nọ, cây viết mà tôi cẩn thận cất dưới đáy cặp biến mất sau giờ ra chơi. Tôi tiếc đến chảy cả nước mắt. Sau một hồi nhốn nháo truy tìm, dò hỏi mà không ra manh mối, nhỏ Lan tổ trưởng bực bội: “Chỉ còn cách là xét cặp”.
Cái hình thức “cưỡng bức” ấy chắc có lẽ chỉ có tụi con nít như chúng tôi là ngoan ngoãn nghe theo. Từng cái cặp được đưa ra và rốt cuộc tôi không thể tin vào mắt mình khi nhìn thấy cây viết rớt ra từ hộp bút của nhỏ Trang. Trang ngồi cạnh tôi, rất dễ thương với đôi mắt to đen, hiền lành, ít nói nhưng nói năng rất nhỏ nhẹ. Chúng tôi là đôi bạn học tập. Trang cúi gằm mặt. Nhỏ Lan lên tiếng :
- Mai tui sẽ báo cáo chuyện này với cô chủ nhiệm.
Đến lúc đó Trang mới ngước mắt, len lén nhìn tôi, nước mắt vòng quanh: “Đừng...”.
Tôi vênh mặt ngó đi nơi khác, ngầm đồng ý với Lan.
Cả tuần sau Trang không đi học. Qua cô giáo chủ nhiệm, chúng tôi biết Trang đã chuyển trường. Sau đó, tôi không gặp lại và cũng không có tin tức gì về Trang. Sau này, mỗi khi nhớ lại chuyện cũ, tôi cứ cảm thấy day dứt, ân hận. Tôi đã lấy lại được một cây viết nhưng tự làm mất điều lớn hơn thế: một tình bạn.
Cô Nhân
Cái chết đến với cô quá đột ngột. Do một tai nạn giao thông. Riêng em càng suy nghĩ về cô. Nếu cô không đến nhà một đứa học trò nghèo trong xóm lao động để tặng một bộ quần áo thì chưa chắc tai nạn ấy đã xảy ra cho cô.
Cô ra đi để lại đứa con gái nhỏ vốn đã thiếu cha giờ đây lại mất mẹ.
Cô ơi em phải làm sao để ở cõi vĩnh hằng nào đó cô vẫn biết rằng đang có đưá học trò ngày đêm ân hận vì đã có lần vô lễ với cô.
Đã từ lâu em cứ tưởng rằng người tốt mãi mãi vắng mặt trên cuộc đời này. Cô đã giải cho em một bài toán khó về lối sống. “Vẫn còn có nhiều người tốt chung quanh ta”, đó là đáp án của cô .
Viết những dòng này thay cho nén nhang tưởng niệm đến cô. Bộ quần áo cô cho nó sẽ là phần thưởng vô giá theo em suốt cuộc đời. Càng nhìn nó em càng nhớ tiết dạy của cô.
- Các em cứ sống tốt để tâm hồn được thảnh thơi.
Lời cô giảng chưa dứt thì một tiếng suỵt từ đâu đó phát ra. Mọi ánh mắt trong lớp 7A1 đều đổ dồn về cuối lớp để tìm ra tiếng suỵt lạc lõng. Lúc này em mới thấy sợ trước sự im lặng.
Tiết học trôi qua, giờ ra chơi đến. Cô lặng lẽ bước ra khỏi lớp với lưng áo ướt đẫm mồ hôi. Em nhìn theo mà ái ngại.
Mấy đứa bạn gái ùa về phía em tranh nhau trách móc:
- Sao bạn dám vô lễ ngắt lời giảng của cô?
Cái tính tự ái vẫn còn đọng lại ở trong em:
- Tao thấy người nào sống tốt đều bị hàm oan, đều chết sớm. Tao là bằng chứng sống: nhà nghèo, quần áo cũ. Đi học bị coi khinh nhiều lúc tủi thân tao muốn bỏ học.
Mỗi lần đến tiết của cô là em cảm thấy lo lắng bồn chồn. Cứ thế hết ngày này sang ngày khác; hết tuần này sang tuần khác, nỗi lo âu cứ đeo đuổi em. Thà rằng cô quở phạt em một lần cho xong. Chẳng biết tâm hồn cô có thảnh thơi không chứ riêng em mang một tâm trạng khắc khoải hoài thôi.
Bây giờ thì cô không còn nữa nhưng bài học mà em ghi nhớ suốt đời là “Hãy sống tốt để tâm hồn được thảnh thơi”.
TUỆ HẢI
Một lần trú mưa
Cơn mưa cuối mùa đột ngột trút xuống ngay giờ tan tầm. Tôi không mang theo áo mưa nên nhanh chóng tấp xe vào lề đường. Suýt chút tôi va vào xề chuối nướng của một chị đứng tuổi đang kéo phương tiện mưu sinh của mình sát vào trong tránh mưa.
Chỉ khoảnh khắc, mọi người đã phải chen chúc nhau mới đủ chỗ đứng dưới hiên một căn nhà. Cô nữ sinh luống cuống dựng lại chiếc xe đạp vừa bị ngã do vội phóng lên lề. Chỉ vài giây đứng dưới mưa cũng đủ làm chiếc áo dài trắng cô đang mặc ướt sũng. Khi đã nép được vào mái hiên, cô bé mới ngại ngùng nhận ra bộ đồng phục đã dính sát vào da.
Cô ôm chặt chiếc cặp da trước ngực, chắc không vì lạnh mà như phản ứng tự vệ trước bao cặp mắt. Không ít người nhìn cô rồi quay nhanh hướng khác với chút ái ngại. Chợt có tiếng cười khúc khích từ nhóm thanh niên đứng ở góc ngoài làm cô bé lúng túng đến tội nghiệp. Cô dáo dác nhìn trời rồi nhìn vào chiếc cặp. Có lẽ cô định đội mưa về nhà nhưng sợ ướt sách vở. Mưa vẫn như trút. Gió quất vào hàng cây bên đường nghe sàn sạt.
Chị bán chuối nướng nãy giờ chăm chú với đôi đũa gắp trở những trái chuối đang nướng trên vỉ than giờ mới nhìn lên. Chị đảo mắt như thói quen nghề nghiệp đoán xem ai có thể là khách hàng trong lúc này. Ánh mắt chị dừng lại khi bắt gặp cô bé học trò co ro trong chiếc áo dài trắng đang dần mỏng tang vì ướt.
Chị thoáng suy nghĩ rồi thò tay vào chiếc giỏ đựng lá chuối nằm kế bên và rút ra một chiếc áo mưa. Chị bước đến đưa cho cô bé. Một thoáng ngần ngừ, cô bé lắc đầu. Phản ứng tự nhiên khi phải nhận một thứ của người xa lạ. Bằng giọng nói dứt khoát của người từng trải, chị nghiêm giọng: “Em mặc vào và về nhà ngay, mai đến chỗ này trả cho chị cũng được”.
Nhìn theo dáng cô bé hối hả đạp xe và khuất dần ở góc đường, tôi chợt cúi xuống chiếc áo khoác mình đang mặc rồi nhìn lại chị bán chuối nướng vẫn bình thản tiếp tục việc mưu sinh… Mưa vẫn như trút, nhưng không cuốn trôi được cảm giác xấu hổ đang bừng lên.
LÝ NGUYỄN VŨ SƠN
Quà...
Gia đình tôi bán văn phòng phẩm. Ba mẹ tôi lại là giáo viên. Mỗi năm cứ đến ngày 20-11, (ngày Thầy Cô) tôi lại chứng kiến cái cảnh những bà mẹ đi mua quà cho con.
Còn ba mẹ tôi chỉ nhìn rồi cười, một nụ cười xót xa cho cho cách người ta chọn những món quà để tôn vinh người thầy, người cô dạy con họ nên người…
Những bà mẹ mua quà cho con. Lựa chọn, tính toán thật kĩ để không phí đồng tiền vô ích. Vì môn học cũng có môn chính, môn phụ… và thế nên thầy cô cũng có người phụ, người chính…
Những bà mẹ lại đi mua quà cho con. Gặp nhau ở cửa hàng và bàn tán với nhau. “Ừ! Nhà cô đó nghèo lắm! Mua như vậy được rồi”, “Trời đất, nhà thầy đó hả? Giàu sụ, lựa cái quà gì cho xứng đáng chứ…”. Họ gục gặc đầu… và bắt đầu lựa chọn quà mừng cho những người dạy con cái họ nên người.
Những bà mẹ lại đi mua quà cho con. Lựa chọn cả ngày trời. Có người bảo cô bán hàng gói đại cái gì mà những người khác hay mua đấy. Có người tiếc tiền, lục lại đống quà mừng sinh nhật hay tân gia, người ta tặng nhiều quá, không xài hết, rồi đem ra tiệm nhờ người bán hàng gói hộ và đính kèm theo tấm thiệp của ngày 20-11.
Lại có những bà mẹ chẳng đi mua quà cho con. Công việc bận bịu quá! Mà thời buổi này là thời buổi kinh tế thị trường mà! Ngày 20-11 , bà mẹ mua một cái phong bì rồi mở bóp lấy 200.000 bỏ vào: “Con mang phong bì này đến làm quà tặng cô”. Thằng bé ngơ ngác: “Vậy cũng được hả mẹ?...”.
Lại có những đứa học trò nghèo không có tiền mua quà tặng thầy cô. Tối về cặm cụi vẽ và làm những tấm thiệp ngây ngô. Sáng mai hái ở ven đường những bông hoa dại. Thằng bé ngượng ngùng trước những bông hoa rực rỡ và những món quà sang trọng của các bạn. Nhưng thầy giáo lại mỉm cười: “Đây là món quà mà thầy quý nhất!”...
Vậy mới hay, có những giá trị chỉ có ở tấm lòng…
DƯƠNG THỊ BẢO THỦY
Thầy giáo “đường phố”
Minh và các trẻ em đường phố
Mới học lớp 12 nhưng cậu học trò nghèo học giỏi nhiều năm liền Châu Cao Minh (lớp 12/4, xã An Đức, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre) từng đứng lớp dạy học và là người anh trong đại gia đình trẻ em đường phố của Trung tâm Dạy chữ, dạy nghề cho người khiếm thị Bến Tre.
Trong thân hình khẳng khiu, xanh xao vì thiếu ăn ấy, lung linh một ước mơ tuổi 18.“Gia đình mình trước đây nhiều đời giữ mộ cụ Nguyễn Đình Chiểu. Sau năm 1979 được chính quyền cấp trên 350m2 đất tái định cư rồi cho ngưng công việc giữ mộ. Mảnh đất 350m2 rồi cũng bị người ta lấn chiếm chỉ còn trên 200m2. Nhiều năm qua gia đình đi gõ cửa nhiều nơi nhưng vẫn chưa được giải quyết. Mắt cha giờ đã mù hẳn, ông phải làm công việc ít ai nghĩ người mù có thể làm được: đi mài dao kéo, kiếm 20.000-30.000đ mỗi ngày nuôi đại gia đình ở cái tuổi 66. Trước đây mình nửa buổi đi học, nửa buổi dắt cha đi làm. Bây giờ đứa em gái học lớp 9 thay mình dẫn cha”.
Minh có bôn người chị không biết chữ. Minh thương chị Hai gần 40 tuổi mà vẫn chưa lấy được tấm chồng. Chị Ba bất hạnh hơn khi ly thân với chồng, bán vé số nuôi ba con nhỏ; chị Tư phải đi ở đợ tận Saigon, còn chị Năm có chồng xa cũng không giúp được gì. Cái nghèo cứ mãi đeo bám đại gia đình bần hàn, vậy mà căn bệnh ung thư giai đoạn cuối đang rút ngắn cuộc sống mẹ Minh từng ngày. Mẹ xanh xao, ốm yếu, còn cái bụng thì ngày càng phình to. Minh nói: “Trước đây mẹ rong ruổi bán vé số hơn 10 năm, rồi căn bệnh nghiệt ngã đã không cho bà đi nữa”.
Năm lớp 7, Minh vừa đi học vừa bán vé số, bán hột vịt lộn, chiều về xắn quần bắt từng con ốc dừa đem ra chợ bán lấy tiền mua tập sách và lo nồi cơm cùng với mẹ. Cũng may, khi học năm lớp 8 Minh được vào Câu lạc bộ trẻ em đường phố (CLBTEĐP) tỉnh Bến Tre học tập, sinh hoạt. Cô Nguyễn Thị Hưng cho biết: “Sống tại đây Minh xem mấy đứa trẻ mồ côi như em, dạy các em học, sống hòa đồng, chia sẻ với chúng từng viên kẹo, gói mì tôm, hay bất kỳ món quà nào của nhà từ thiện. Tôi rất hài lòng khi Minh biết san sẻ nỗi bất hạnh của người khác”.
Hết chế độ, Minh phải rời CLBTEĐP. Lên cấp III được Hội Người mù tỉnh giúp đỡ chỗ ở tại Trung tâm Dạy chữ, dạy nghề Bến Tre. Tại đây Minh tham gia nhiều hoạt động giúp đỡ người khiếm thị và là MC dẫn chương trình không thể thiếu của trung tâm, rồi tự nuôi sống bản thân bằng việc dạy thêm. Ban đầu Minh chạy vạy, gõ cửa nhiều phụ huynh mở lớp dạy hai đứa, rồi bôn đứa, 10 đứa và gần 20 đứa. Cái tên “thầy Minh” ra đời từ đó.
Minh tâm sự: “Mình là học sinh đâu dám mở miệng yêu cầu học phí, mấy đứa hiểu hoàn cảnh của mình nên hỗ trợ 15.000 - 20.000 đông/tháng. Tội nghiệp các em nhỏ, chúng nó làm gì có tiền!”. Một phụ huynh cho biết: “Tại đất Bến Tre này có lẽ lớp học của Minh có một không hai. Nhiều học trò nghèo lam lũ cũng được Minh “lùa” vào đây học ké mà khỏi trả tiền. Mấy đứa trẻ đường phố rảnh rỗi cũng chạy sang lớp học của thầy Minh.
Lớp học 5 buổi/tuần lúc nào cũng sinh động, đầy ắp tiếng cười. Tôi thấy mấy đứa nhỏ học được tính của thầy Minh nên cần cù, kỹ lưỡng, năng động và ham học lắm”. Còn Minh thì cười bẽn lẽn: “Nói sợ người ta cười chứ một thời gian dài không có chỗ phải tá túc mở lớp tại nhà mồ, vậy mà mấy đứa nhỏ vẫn không bỏ lớp”.
Quãng đường làm thầy của Minh kéo dài được hai năm. Đầu năm học mới này, Minh đành chia tay lớp học để hướng đến ước mơ thi đại học ngành luật. Hiện Minh sống chủ yếu bằng khoản học bổng 200.000đ/tháng do Hội Thiện nguyện Vovicare (Úc) trợ cấp.
Cô Lê Thị Mỹ Trinh - giáo viên chủ nhiệm lớp 11 của Minh - cho biết: “Mọi công việc của lớp Minh đều hoàn thành xuất sắc cùng với tính cẩn thận, kỷ luật rất nghiêm. Minh là lớp trưởng , giàu nghị lực vượt khó, chưa bao giờ đến lớp trê hay nghỉ học vô cớ”. Nói giữa chừng, cô Trinh bật khóc: “Có lần Minh đứng trước lớp nói sẽ nghỉ học vì mẹ ở nhà đang bệnh nặng. Thân thể Minh xanh xao là kết quả những ngày ăn mì gói, vậy mà vẫn lạc quan, trên môi không bao giờ thiếu vắng nụ cười”.
THANH XUÂN
Làm thuê để thoát kiếp làm thuê
Đại là người con thứ ba trong năm anh chị em của một gia đình có cha thương binh 2/4, mẹ bệnh tật, đi lại khó khăn ở một miền quê heo hút ấp An Ninh, xã Lương Phi, huyện Tri Tôn, An Giang. Không ruộng đất, cả nhà dắt díu nhau đi làm thuê khắp nơi; có lần sang tận Campuchia.
Người mẹ bệnh nhưng biết làm rất nhiều loại bánh để sau buổi học chị em Đại chia nhau đội đi bán; rồi đi kéo lưới, bắt cá thuê . . . “Làm thuê cũng cần có trình độ”, ngay từ lớp 5, cậu bé Nguyễn Trần Đại đã tự nhủ với mình như thế khi có người kêu con trai thì nghỉ học phụ gia đình. Và Đại đã đi làm mướn (lên núi phát rẫy, xuống ruộng làm cỏ thuê . . .) kiếm đủ số tiền như một ngày công bình thường (15.000 - 20.000 đồng/ngày) chỉ để giữ được một ước mơ : ít nhất phải học xong cấp III chứ không lẽ làm thuê cả đời.
Đại đậu vào đúng ngành mình chọn ở ĐH An Giang. Niềm vui chưa qua, nỗi lo đã ập tới: chỉ nửa tháng sau nhập học, Đại đã hết sạch số tiền làm thuê gom góp được. Mẹ ứa nước mắt : hay lại về làm thuê một thời gian nữa rồi học sau. Nghĩ mãi không ra, Đại mím môi đạp cho hết quãng đường về quê cách đó 75km làm thủ tục xuất khẩu lao động sang Malaysia nhờ vào sổ thương binh của cha. Trong lúc đợi kết quả, Đại quay lại trường với nỗi khát khao giảng đường.
Một tháng sau, thật bất ngờ, Đại đã được cơ quan xuất khẩu lao động gọi, hẹn ngày lên máy bay. Bất ngờ hơn, Đại thưa với mẹ về quyết tâm của mình khi mẹ lo con trai không tìm đâu ra tiền ăn học: “Con sẽ cố gắng lo liệu việc học”. Và người SV ấy làm đủ mọi nghề: dạy kèm, tiếp thị, phục vụ đám cưới, quán ăn . . . chỉ để giữ lại một ước mơ : thoát đời làm thuê.
Gia đình ở quê thật ra cũng vất vả không kém. Ngoài hai người em còn ở lại quê với người cha thương binh, mẹ và chị, em gái Đại đi khắp nơi làm mướn, chỉ đủ ăn, có năm không đủ tiền về quê ăn tết. Năm đó, Đại về quê, nhìn cảnh nhà vắng vẻ với người cha thương binh và hai đứa em không có quần áo mới mặc tết, Đại càng nung nấu với quyết tâm và sự chọn lựa của mình.
“Ban ngày tới lớp, 5g chiều đi làm phục vụ, có khi 12g mới về đến phòng, đôi chân mỏi nhừ . . . Nhưng mình thích vậy, thà bận rộn mà đỡ nhớ” - Đại lặng lẽ tâm sự. Nói vậy thôi nhưng làm sao có thể quên được vì đó không chỉ là tình cảm mà còn là trách nhiệm của một người con trai trong gia đình. Bạn bè Đại kể chúng tôi nghe về chuyện nhịn ăn, nhịn mặc của Đại để có thể từ số tiền làm thêm được 300.000 đồng mỗi tháng vẫn có thể gói ghém 50.000, 100.000 đồng gửi về quê.
“Cô hiệu trưởng ở gần nhà bảo khi ra trường sẽ giúp đỡ cho về dạy gần nhà. Vui lắm vì mình biết cứ mùa lạnh cuối năm như thế này, những miểng đạn chiến tranh còn sót trong người sẽ hành cha dữ lắm!” - chàng SV phục vụ bàn này một thoáng ngời lên với hạnh phúc đang chờ đợi.
PHẠM DIỄM
Tờ 1.000 đồng…
Buổi thi cuối. Còn 15 phút nữa mới tới giờ, cả lớp nhộn nhạo trước phòng thi. Kẻ cười người nói, lớp học không đông lắm nhưng cũng đủ làm mảnh sân nhỏ trở nên chật chội.
Bỗng một bạn la lên: “Ủa, ai đánh rơi 1.000 đồng nè”. Mọi ánh mắt đổ dồn về phía có tiếng la. Chàng lớp phó đứng cạnh gốc phượng hí hửng chỉ tay xuống nền ximăng: “Nè, đây nè”. Lẫn trong lá cây rụng và cát bụi là tờ 1.000 đồng cũ kỹ.
“Trời, tưởng gì có 1.000 đồng”, “Còn cũ xì nữa chớ”, “Hi hi, lớp phó nhặt đi, nhìn tướng ông giống ăn mày lắm đó”... Tờ tiền nằm chỏng chơ vì chẳng ai muốn bị “mang tiếng”. Bỗng một cô bạn nhỏ nhắn len đến gốc phượng nhặt tờ tiền lên, phủi sạch bụi, bỏ vào túi áo.
Không khí ồn ào tự nhiên lắng xuống cho tiếng xì xầm to nhỏ nổi lên. Một nhóm bạn gái tóc duỗi bĩu môi: “Nhìn nhỏ cũng đâu có tệ há, không ngờ...”, “1.000 đồng rách cũng không tha”... Có vài ánh mắt thương hại dõi theo bạn gái nhặt tiền.
Tan buổi thi. Mọi người lục tục ra về. Trời đang chuyển mưa nên bạn nào cũng vội vã. Người bạn gái nhặt tiền dừng xe, lục trong túi áo ra 1.000 đồng ban nãy, vuốt thẳng rồi nhẹ nhàng đặt vào nón bà cụ ăn xin ngồi bên lề đường, mỉm cười với bà rồi vội vã hòa vào dòng người . . .
Thư con trai gửi mẹ
Trong đời người, ai cũng có quyền và ai chẳng từng ít nhất một lần mưu cầu hạnh phúc cho riêng mình. Chẳng ai có quyền và cũng chẳng ai nỡ ngăn cản sự mưu cầu hạnh phúc của người khác. Tuy nhiên, đôi khi, hạnh phúc đến với người này lại chính là nỗi đau với kẻ khác. Và thật đau lòng khi kẻ khác ấy chính là những đứa con . . . Những bậc phụ huynh sắp sửa bước chân ra khỏi ngôi nhà của mình để đi mưu cầu hạnh phúc riêng tư, xin hãy dừng chân giây lát nghe tâm sự của một người con . . .
"Khi ba mẹ đưa nhau ra tòa, con không hiểu được vì sao mẹ lại bỏ mặc anh em con cho ba nuôi dưỡng. Lúc đó anh em con vẫn còn nhỏ chưa đủ nhận thức để có thể biết được ai đúng ai sai. Chỉ biết rằng từ nay chúng con không được sống trong vòng tay thương yêu chăm sóc của mẹ.
Trải qua bao năm tháng, anh em con cũng lớn dần lên và hiểu hơn chuyện ngày xưa do ba kể lại. Mẹ đã bỏ anh em chúng con để theo một người đàn ông khác. Từ khi biết chuyện mẹ ra đi chỉ để mưu cầu hạnh phúc khác - điều đó đâu có gì là sai trái đâu - nhưng nói thiệt, những khi nghĩ về mẹ, con trằn trọc không sao ngủ được. Và cũng đã nhiều lần con tự nhủ với lòng rằng phải cảm thông, tha thứ cho mẹ, rằng mẹ bỏ tụi con vì mẹ không đủ điều kiện nuôi chúng con, nhưng vì sao mẹ không quan tâm, không tới lui để hỏi han anh em con lấy một lần để bù đắp lại phần nào tình cảm mà chúng con đã mất mát? Dù sao chúng con vẫn là con do mẹ đứt ruột đẻ ra kia mà?
Có một lần tình cờ con gặp mẹ đi cùng với một người đàn ông và hai đứa trẻ. Nhìn thấy mẹ nói chuyện với người đàn ông đó và nô đùa với hai đứa bé con của mẹ mà con thấy tủi thân. Bởi từ nhỏ đến giờ anh em con chưa biết thế nào là hạnh phúc của một gia đình sum họp, có đầy đủ tiếng cười của cha mẹ, của anh em chúng con. Và con đã khóc.
Mẹ biết không đã có những lúc con muốn chạy đến mẹ chỉ để được gọi tiếng "mẹ" mà bấy lâu nay con khao khát nhưng lại sợ vì không biết mẹ có còn nhớ đến chúng con không, có nhìn nhận chúng con là con của mẹ không? Vâng con sợ ánh mắt thản nhiên và lạnh lùng của mẹ khi nhìn con. Chính vì vậy con không dám đến tìm mẹ, bởi càng nghĩ càng đau lòng thêm thôi.
Anh em con hiện giờ vẫn đang sống trong tình thương yêu đùm bọc của ba - một người rất hiền lành và thương yêu con cái. Con cũng đã dằn vặt vì sự ích kỷ của con trước đây. Ngày ấy khi mẹ bỏ đi nhưng vì con vẫn hy vọng một ngày nào đó mẹ sẽ về nên con đã ngăn cản quyết liệt mỗi khi có người phụ nữ nào tìm đến với ba. Con sợ ba có người phụ nữ khác sẽ bỏ rơi anh em con và "triệt đường" trở về của mẹ. Chắc ba con cũng hiểu được suy nghĩ ấy nên ba đã không đi thêm bước nữa, ở vậy cho đến giờ.
Giờ đây, anh em con đã lớn thì những nếp nhăn trên trán ba ngày một rõ. Tụi con lần lượt rời quê lên trọ học tại thành phố, thỉnh thoảng tranh thủ mấy ngày nghỉ lễ tết về quê thăm ba. Mỗi lần gặp ba, con lại ân hận phải chi ngày ấy con đừng ngăn cản thì giờ đây ba đâu có phải sống cô đơn như thế này.
Nghĩ đến cha bao nhiêu thì con cũng nghĩ tới mẹ bấy nhiêu, dù gì thì mẹ cũng là người sinh ra chúng con, trong lòng con vẫn còn một góc dành cho mẹ, vẫn luôn nhớ về mẹ, vẫn muốn được mẹ ôm vào lòng mà gọi "con trai của mẹ". Chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ làm cho con hạnh phúc lắm rồi - cái hạnh phúc mà con ao ước bấy lâu.
Con mới viết thư gửi về quê cho ba, con chợt nghĩ tại sao mình không viết thư cho mẹ nhỉ vì mẹ vẫn luôn là mẹ của chúng con.
Con của mẹ".
Trứng khóc
Mẹ đưa bàn tay gân guốc vuốt phẳng phiu từng tờ bạc, lẩm nhẩm không thành tiếng "500, 1.000, 2.000…". Không khí trong nhà bỗng lặng như tờ. Lâu lâu lại nghe mấy tờ bạc nhàu nhĩ và đám đồng cắc khẽ cọ vào nhau khua lên những tiếng loạt xoạt cố nén.
Thình lình, một tiếng quát giận dữ xé toạc bầu không khí im lặng khó chịu:
- Thôi đủ rồi! Còn đếm tới đếm lui gì nữa! Đã nói là lỗ vốn nặng rồi! Bỏ, dẹp! Không bán buôn gì nữa hết, bà có nghe không? Hả?
… Ba đã hết tuổi lao động, thất nghiệp mấy tháng nay. Trước giờ, mọi chi tiêu trong gia đình đều trông vào một tay ba, nay nguồn thu nhập chính đó đột nhiên đứng phắc, mẹ lo lắng rạc cả người. Cô Lan bán đồ chiên ngoài chợ Cầu Đỏ gợi ý sang cho mẹ cái sạp con để kiếm thêm đồng ra đồng vào. Vậy mà khi mẹ khấp khởi bàn tính với ba, ba giận dữ quát tháo, nói mẹ không quen bán buôn làm sao đứng nổi giữa chợ nắng, làm sao bon chen với thiên hạ giảo hoạt gian manh… Nhưng rồi cũng xuôi theo mẹ, khi mấy đứa con rụt rè đùn đẩy nhau xin tiền học phí.
Hồi đầu mẹ bán trứng vịt chiên bỏ mối cho mấy quán cơm, tuy chưa có lời nhiều nhưng không bị lỗ đồng nào. Rồi khi ngoài chợ đã quen chỗ, quen người, mẹ vay tiền mua thêm cải để muối dưa, lại còn lấy tăng số trứng vịt lên gấp đôi… Nhà bắt đầu có lại tiếng cười hồn nhiên khi lũ con quây quần bên nồi trứng nóng hổi để lột vỏ…
Đùng một cái, cúm gà bùng phát trở lại. Và những buổi tối nặng nề như bữa nay làm lũ con cứ ngơ ngẩn lột hoài mấy cái vỏ trứng không xong…
Khuya. Đứa con lớn nghe tiếng mẹ trở lưng, biết mẹ chưa ngủ, nó rón rén xuống nhà dưới lấy ly nước. Mẹ ở ngoài chợ nắng cả ngày, hay khát nước. Nó ngạc nhiên thấy cái honda "kỳ nhông" của mẹ đã ràng buộc xô dưa cải cẩn thận, lại còn cả mớ cá thát lát làm sẵn để gọn gàng bên rổ trứng luộc. Ngó qua cái sập gỗ, nó thấy một đốm lửa nhỏ cứ chốc chốc lại rực lên, một bộ đồ cũ mắc sẵn trên ghế. Nó hiểu, ngày mai ba sẽ cùng mẹ ra chợ bán cá thát lát chiên, và đây là mẻ trứng cuối cùng!
Tự dưng một giọt nước rớt xuống cái trứng luộc tròn trịa trắng bóc. Cái trứng nhìn như muốn khóc.
KIM THỦY TÙNG .
Quà cho con
Trước ngày khai giảng, tôi đem gom hết đống tập sách cũ của năm ngoái lại bán. Bao nhiêu là sách, tốn không biết bao nhiêu tiền vậy mà lúc bán chả được là bao, mẹ cho tôi luôn.
Hí hửng tôi liền rủ lũ bạn đi ăn kem.
Trên đường về, tôi gặp lại cô mua sách hồi sáng. Thấy cô ngồi đóng đóng, bọc bọc, tôi tưởng cô chuẩn bị đem bán cho những người mua buôn. Nhưng không, lại gần hơn tôi thấy cô đang cẩn thận rọc từng trang giấy trắng còn lại trong những cuốn tập tôi bán sáng nay, cắt xén gọn gàng, đóng lại thành những cuốn tập mới. Chắc hẳn cô cũng đang chuẩn bị tập vở làm quà cho con nhân ngày khai giảng.
Lòng tôi bỗng chùng hẳn xuống! Cuộc sống đủ đầy khiến tôi chưa bao giờ hiểu hết giá trị của những món quà. Những cuốn tập đó hẳn sẽ là món quà ý nghĩa nhất cho con cô và cả cho tôi - món quà về giá trị cuộc sống.
ANH VŨ
Mẹ ơi, con đã hiểu...
Tôi biết một điều rằng, mẹ tôi đang già đi… Từ nhỏ, tôi luôn thấy tôi và mẹ không hợp nhau. Tôi hờn giận vì thấy mẹ cưng chiều anh trai và em út hơn mình. Mẹ tôi chẳng bao giờ nói với tôi những điều ngọt ngào, mẹ tôi cũng không thích những lý lẽ bướng bỉnh của tôi.
Mẹ tôi suốt ngày ở chợ, bà bán cơm bình dân cho những người chở xe ba gác, những bác thợ bận rộn không thể về ăn cơm nhà… Tôi đã luôn giận mẹ vì tôi bị… cắt xén thời gian học, và phải đạp xe lên chợ rửa những chậu bát đũa to đùng của khách. Thỉnh thoảng lại cúi đầu khi gặp vài đứa bạn quen xúng xính cùng bố mẹ đi mua sắm… Tôi giận mẹ, vì mẹ chỉ thích tôi học nghề giáo, không muốn tôi theo nghiệp viết lách, tôi giận mẹ vì tối nào mẹ cũng ca cẩm khi thấy nhà cửa chưa gọn gàng, lũ chó, mèo chưa được cho ăn…
Sau một tai nạn giao thông, mẹ tôi bị chấn thương cột sống và không thể làm việc nặng. Lúc này, tôi đang học đại học. Mẹ không muốn tất cả gánh nặng dồn lên đồng lương kỹ sư của bố nên lại soạn sửa một quán cóc nhỏ ngay trước cổng trường Đại học Kiến trúc để buôn bán. Quán nước nhỏ nhưng khá đông sinh viên, còn tôi, tôi ngại ngần mỗi khi phải phụ mẹ bán hàng, bởi quá nhiều bạn bè tôi học ở đó, tôi đã có những suy nghĩ con nít và vô cùng ích kỷ…
Mỗi sáng, mẹ đi chợ lo bữa ăn cho cả nhà. Rồi dọn dẹp nhà cửa, giặt giũ, rồi chăm sóc bà nội… Chiều đến, mẹ lại chuẩn bị đồ bán hàng. Cái quán cóc nhỏ ấy của mẹ trong ký ức của tôi lúc nào cũng liêu xiêu. Thì chỉ là một chiếc bàn con con và mấy cái ghế, vài ly nước chè, dăm cái kẹo lạc… Nhưng cái quán ấy đã nuôi 3 anh em tôi những ngày học đại học. Có một lần trời mưa, tôi lười biếng phải đội mưa đi đón mẹ, đến khi ra trễ, thấy xót xa vì quán ướt nhẹp, mẹ tôi thì lạnh run. Nhưng mẹ chẳng nói gì cả, và tôi cũng vô tâm quên chuyện ấy đi. Sau này, mẹ lại lo cho bà tôi chu đáo khi bà qua đời, tôi thấy các cô tôi gọi vào và nói với tôi rằng: “Mẹ cháu là một người tuyệt vời”, lúc đó, tôi đã im lặng, không nói và cũng không cãi lại.
Bây giờ, tôi đã lập gia đình, có con nhỏ…
Mẹ tôi thu xếp công việc và lên tàu vào Nam chăm tôi suốt 6 tháng. Đây là lần đầu tiên trong đời mẹ đi xa một mình, mà lại vượt hơn ngàn cây số như vậy. Bây giờ, tôi đã đủ lớn để hiểu rằng mẹ tôi từng là một kỹ sư sau khi tốt nghiệp Đại học Bách khoa, nhưng bà nghỉ làm vì lương công chức quá thấp, mà bà phải lo cho 3 anh em tôi ăn học. Mẹ tôi làm nhiều nghề: khi bán cơm bình dân, lúc lại theo mấy dì lên tận Hòa Bình buôn bán trái cây; rồi có những buổi tối mùa đông bà ngồi nướng những chiếc bắp nếp thơm phức để bán cho những người thư thả đi dạo phố; rồi bán quán cóc vỉa hè… Công việc nào cũng làm mẹ vất vả, lưng mẹ còng đi nhiều, và đau nhức mỗi khi trái nắng trở trời.
Mỗi lần nghĩ tới mẹ, tôi lại thấy lòng đầy lên nỗi hổ thẹn. Tôi đã chỉ thấy những điều quá tầm thường, tôi đã không thể thấy một tình cảm bao la của lòng mẹ. Tôi đã không thấy rằng cuộc sống nhiều lo toan quá nên mẹ tôi không thể luôn dịu dàng, luôn ngọt ngào với chồng, con. Những năm tháng nhọc nhằn đã làm mẹ kiệt sức, mẹ không thể đi bộ xa vì cột sống quá đau. Tôi xa xót khi nghe nhỏ em kể, chỉ sang nhà dì cách nhà tôi 200 mét thôi mà mẹ phải ngồi trên xe đạp. Tôi đã hiểu rất nhiều, nhưng tôi luôn xấu hổ, tới mức tôi chưa bao giờ thú nhận với mẹ những suy nghĩ của mình, rằng “con đã hiểu mẹ hơn, khi con ấp ủ trên tay một sinh linh bé nhỏ. Con đã hiểu sự hy sinh mẹ dành cho con, đó là sự hy sinh không điều kiện của người mẹ. Và con cũng hiểu, mẹ chẳng yêu ai hơn trong số 3 đứa con cả, vì tất cả chúng con đều là con của mẹ. Con nhớ và yêu mẹ nhiều lắm”.
MINH THANH
Đứng lên con nhé !
Thương gởi con yêu
Má muốn con hiểu một điều rằng, má thương con rất nhiều. Nhà mình không khá giả, ba thì đã đi xa, má chỉ có mình con với em là điểm tựa. Hẳn con hiểu điều đó.
Con biết không, đối với má con là đứa con mà má lo nhất. Tính con lúc nào cũng trẻ con, nóng nảy không suy tính trước sau gì cả. Dẫu cuộc sống có nghèo khó hơn nữa thì má vẫn quyết lo cho con ăn học đến nơi đến chốn. Con học đâu có thua kém ai. Năm đầu tiên con không đậu đại học, má biết con buồn nhiều. Nhưng người ta vẫn thường nói “thất bại là mẹ của thành công”.
Vả lại, thi chưa đậu năm đầu thì vẫn có thể làm lại và đó là động lực để làm tốt hơn phải không con? Có gì đâu mà con phải thất vọng. Cuộc đời lúc nào cũng rộng mở cửa cho những người biết đứng dậy khi thất bại, vấp ngã. Má đã không ít lần vấp váp. Mỗi lần như vậy má lại rút ra một bài học cho mình và cố gắng sống tốt hơn.
Tuy giờ đây má cũng không phải là người thành đạt nhưng má luôn tự tin rằng má không hổ thẹn. Nhiều lúc khốn khó nhưng má vẫn giữ sự trong sạch, luôn vươn lên, không bao giờ thất vọng. Má muốn con hãy hiểu điều đó, đừng bao giờ gục ngã, rồi khi đó con sẽ biết giá trị của thành công.
Má có nhận thư con nói về người yêu của con. Cô ấy có vẻ lơ là khi biết chuyện con thi rớt. Cô ấy đậu, con rớt và lơ là với con, má biết đó là nỗi đau của con nhưng con cũng đừng quá đau lòng vì con đã nhận ra tính cách của cô ấy sớm hơn, nhận ra điều mà con ngộ nhận “cô ấy yêu con”. Tình yêu sau này của con nhất định sẽ chín chắn hơn trong việc chọn lựa. Má không biết con có thể đọc được những tâm sự này hay không, nhưng má mong con đừng vì những thất bại ban đầu mà gục ngã. Má tin con trai của má sẽ đủ sức mạnh, đủ trí khôn để đứng lên và sống tốt.
Ở Sài Gòn xa lạ đó, lần đầu tiên con đến, má mong con sẽ không sa ngã, sẽ tiếp tục nuôi dưỡng ước mơ của con “học làm một bác sĩ cứu người”. Con còn nhiệm vụ nữa là truyền ước mơ cho em nữa mà. Con thương má thì con phải hiểu những tâm sự này của má. Má tin ở đứa con mà má rất yêu thương, hi vọng.
ĐỖ THỊ HIỀN
Rượu cay, muỗi đói
Ông cưới ngoại tôi khi bà đã bước qua một đời chồng và đang cõng trên lưng năm đứa con thơ.
Bằng nghĩa tình và bằng tấm lòng của người cha, ông mở vòng tay bao bọc, che chở, nuôi nấng đàn con cho tới lúc trưởng thành và lần lượt dựng vợ gả chồng cho từng đứa, để rồi lại trao cho ông một đàn cháu. Tôi là một trong đám cháu lít nhít đó.
Ông chưa bao giờ mặc nguyên bộ quần áo trừ khi ông đi dự cưới hỏi giỗ kỵ và những ngày cuối cùng trên giường bệnh. Ông thường mặc chiếc quần lỡ, màu đất, lưng để trần, dù ông đang đào hay đang cuốc, đang gieo trồng, đang thu hoạch dưới trời đẫm sương hay nắng như lửa đốt. Chiếc áo ông cuộn lại để trên bờ rẫy cạnh chai rượu đế uống dở. Chiếc áo ấy chỉ có hữu dụng duy nhất là chiều về, ông túm nó thành cái túi, bọc mớ nhãn lồng chín ửng, trái thù lù chín vàng, trái cơm áo chín đỏ… Đứa nào nhỏ được ông chia phần nhiều hơn. Đứa nào không ăn được trái chín thì được uống sữa đậu. Tối, ông lụi cụi bên chiếc cối đá, xay nhuyễn đậu xanh, đậu nành đã được bà ngoại rang vàng. Sữa bột thơm phức có đứa cũng chê, đòi sữa mẹ, khóc i ỉ thâu đêm.
Đêm, thấy cháu quấy, bà thức ông cũng không ngủ được. Ông tiếp củi cho chiếc bếp un đều đều tỏa khói. Ông cầm chiếc quạt chầm bằng lá dừa phất khói bay về tứ phía. Khói cay lan tỏa. Nhiều con muỗi lờn khói bay vo ve đợi lúc bà lơ là một chút là sà xuống đớp vào thịt da trẻ nhỏ. Ông tức lắm. Bỏ thêm củi thì sợ tụi nhỏ không thở nổi. Vô mùng thì chúng không ưng. Chúng quen nhịp võng và tiếng ru. Thế là… ông duỗi đôi chân trần, mời mọc. Bầy mũi đánh hơi, lập tức xúm lại bâu vào da thịt khét nắng của ông…
Ông trân mình, không nhúc nhích rồi chậm rãi, nhẹ nhàng, lấy ngón tay dí bẹp từng con một. Bà lo, cự nự. Ông gãi sồn sột chỗ muỗi cắn sưng đỏ, cười hề hề: “Thây kệ tui, miễn sao bà với sấp nhỏ đỡ muỗi cắn !”.
Dần dần, việc “bẫy muỗi” lạ thường ấy thành quen, cũng quen như việc cái cơ thể tráng kiện tự đề kháng với rừng thiêng nước độc muỗi mòng của ông chưa từng đau bệnh bao giờ.
Thế mà ông lại lâm bệnh đột ngột.
Ba ngày sau, má tôi từ bệnh viện, nơi ông đang hấp hối với hai căn bệnh bộc phát cùng một lúc: Sốt rét ác tính và ung thư gan, trở về, hối hả đưa lũ cháu chúng tôi đến gặp ông lần cuối.
Chỉ có mấy ngày mà ông không còn là ông nữa. Như một thân cây tróc gốc, ông nằm đó, bất động, da vàng ệch, mắt không mở nổi, nhắm nghiền…
Nước mắt tôi chợt trào ra khi nhìn thấy trên mu bàn chân ông, một con muỗi đang mải mê hút máu…
B.N.
Suy nghĩ của con: Giá trị của hạnh phúc
Hai năm liền giỗ ba mà con không về được, nỗi day dứt len lỏi sự xấu hổ trong con. Hôm qua trở về ngôi làng xưa mọi thứ đều thay đổi, chỉ có mẹ vẫn vậy - vẫn cô đơn trong ngôi nhà này.
Sau khi ba mất, con năn nỉ mẹ vào Sài Gòn với con nhưng mẹ lại không chịu. Mẹ bảo nơi đây có tổ tiên ông bà và trên hết ở đây có ba con, mẹ đã già không thích hợp với nhịp sống đô thị. Thắp cho ba nén hương, nhìn mẹ quạnh hiu mà con ân hận vô cùng. Các chị em con lần lượt theo chồng về xứ lạ. Chị hai thì ra Bắc, chị ba theo chồng sang nước khác, còn con lại lập nghiệp ở miền Nam.
Ba mẹ cả đời dành hết cho các con, vậy mà chị em con chưa chăm sóc được cho ba mẹ ngày nào. Con còn nhớ như in cuộc sống ngày trước, lúc ấy nhà mình còn nghèo lắm! Cá ba mang về, những con tươi ngon đều mang ra chợ bán, trên mâm cơm gia đình mình chỉ có mỗi dĩa rau muống luộc và vài con cá nục chừa lại đem kho. Ba mẹ chỉ ăn phần đầu và xương, phần thịt dành cho chúng con. Cuộc sống tuy nghèo khó nhưng luôn đầy ắp tiếng cười phải không mẹ?
Với bao bộn bề lo toan cho cuộc sống, con không thể về thăm mẹ thường xuyên được mà chỉ gửi biếu mẹ ít tiền - con biết chứ, mẹ không cần những thứ này mà cái mẹ cần là chúng con về thăm mẹ. Hôm nay nhìn lại tóc mẹ đã bạc rất nhiều, rồi con nghĩ miên man lỡ mai mẹ ở đây một mình nhỡ có chuyện gì… Chỉ nghĩ đến đây con lại sợ, tự nhiên nước mắt lại lăn dài trên má.
Nhưng con không làm khác được, bây giờ con đã lập gia đình và có cả bé Na nữa thì con càng hiểu càng thương ba mẹ nhiều hơn. Cứ mỗi lần bé Na bệnh, con nhớ mẹ thật nhiều, nỗi nhớ mẹ làm con quặn thắt… Lúc ấy con chỉ biết khóc, chỉ mong mẹ tha thứ cho con.
Trên chuyến xe về lại Sài Gòn con chợt nhận ra rằng tiền bạc không là tất cả, nó không thể mua được hạnh phúc đúng không mẹ? Tết này con sẽ lại về thăm mẹ, chỉ vài tháng nữa thôi, mẹ nhớ hãy chờ con mẹ nhé!
T.T.
Rổ xoài.
Vừa ra khỏi lớp, nhỏ Lan đã mời mọc rất to: “Về phòng ngay, tui khao cả nhóm món này, tuyệt vời luôn”. Về tới phòng, nhỏ khệ nệ mang ra một rổ xoài xanh trái nào trái nấy “to ơi là to”.
Cả lũ con gái đứa pha nước mắm, đứa gọt vỏ xoài, cắt miếng... cười nói vui vẻ... “Ngoài chợ năm nay được mùa xoài, nên già rẻ ề. Cả một rổ xoài như vậy mà chỉ có 6.000 đồng thôi nghe mấy bồ!” - nhỏ Lan khoe thành tích mua xoài của mình.
Cả bọn vừa ăn vừa bàn tán rôm rả. Chỉ riêng nhỏ Vân không nói tiếng nào, nhè nhẹ cắn từng miếng xoài, mặt mũi buồn hẳn... Về cùng Vân, tôi hỏi: “Vân có chuyện gì buồn hả?”. Vân im lặng một hồi mới nói lí nhí, giọng như nghẹn: “Cả một rổ xoài như vậy chỉ 6.000 đồng. Không biết tháng sau mẹ tui lấy tiền đâu chi dùng trong nhà, gửi tui ăn học . . .”.
Tôi sững người, chợt nhớ ra nhà Vân chỉ có hai mẹ con. Mẹ Vân ở quê làm ruộng, làm vườn, chủ yếu sống nhờ mấy cây xoài, cây mận . . .
Chuyện vỉa hè
Hà Nội những đêm mưa cuối năm mưa vừa đủ lạnh và vừa đủ ướt. Đủ để làm người ta co ro ngồi nép một góc vỉa hè ăn hàng vào lúc khuya khoắt. Tôi cũng có cái thú ấy. Không đói, nhưng cũng muốn ra vỉa hè ngồi ăn, cốt để nghe mấy chị bán hàng tán chuyện bằng những chất giọng không phải Hà Nội xưa.
Chị bán bún đậu vét mẹt bún đơm vào đĩa cho tôi, rồi nhìn chỗ bún còn lại suy tính. Bỗng một chiếc xe hơi sang trọng trờ tới và một mệnh lệnh đàn bà tinh tướng cất lên: "Còn bún không , cho một suất mang về?". Câu trả lời hơi chần chừ, nhưng dứt khoát: "Nhà em hết bún rồi". Một lát sau, lại thấy một chị bán bánh mì dạo gầy gò lọt thỏm trong đống áo mưa đạp xe chở thúng mủng đi qua. Chị bán bún đon đả mời chào . Nhưng là mời ăn, chứ không tính tiền. Xe con đến mua không bán, mà để dành cho chị đấy. Hai chị rôm rả trò chuyện, hơi thở phả khói trắng lên trời. Nào là bán buôn thế nào, còn lại bao nhiêu, có bị công an đuổi không. Nào là mùa này mưa muộn, ướt nhẹp nhưng cố ra ga bán cũng không hết, may mà có mấy ông bảo vệ công ty gọi vào mua hộ kẻo về muộn . . . Rồi chị bán bánh mì lục thúng lấy một cái bánh mì, nằn nì mời chị bán bún: "Chiếc cuối cùng đấy, em mời chị ăn cho em vui". Hai người phụ nữ mời nhau, dỗ dành nhau ăn những món quà còn lại cuối cùng của mình. Hai người là khách hàng của nhau, sẻ chia cho nhau. Phương thức trao đổi hàng hoá của dân nghèo là thế đó.
Đó là bữa tối đạm bạc và ấm áp tình người nhất mà tôi được thấy trong một đêm Hà Nội mưa phùn . . .
Huỳnh Dũng Nhân
Một đồng nợ chưa trả
Ai từng ở Trà Vinh, từng ăn tô canh chua bông so đũa nấu cá đồng chắc không quên được cái vị ngọt lành của nó. Mùi thơm của bông, của con cá rô hòa quyện đọng hoài trong trí nhớ, miên man mà dai dẳng lắm.
Năm đó nó vừa lên mười đã biết phụ mẹ chợ hôm chợ sớm. Mẹ bệnh, nó biết đi mua bông so đũa từ vườn người ta đem ra chợ bán. Xóm chợ hay gọi đùa nó là “bé so đũa”.
Mùa nước nổi năm ấy, xóm chợ nghèo xôn xao khi một đoàn Sơn Đông mãi võ ghé qua. Đoàn có “năm người”, một ông già, hai người trai trẻ và một cô gái tuyệt đẹp. Trong đoàn còn có một con khỉ bận áo nhung xanh rất ngộ. Chiều chiều thấy đoàn mãi võ ngả lưng trên sạp chợ, bé so đũa không khỏi chạnh lòng. Họ tài vậy mà có khá giả gì đâu.
Buổi diễn cuối, nó bán hết sớm nên chen vào coi. Coi nửa chừng bỗng nghe tiếng còi dẹp chợ vang lên. Người lớn trẻ con xô nhau chạy. Nó không chạy được vì bị xô té, chân sai khớp. Nó khóc. Ông già trong đoàn mãi võ đến bên hỏi han; lấy rượu thuốc xoa bàn chân đau cho nó. Nó vẫn khóc: “Con mất một đồng tiền cắt thuốc cho mẹ rồi”.
Ông già gọi chú khỉ con: “Rôla, con lượm một đồng của chị này phải không?”. Nói chưa dứt lời, ông lấy một đồng trong hộp gỗ, vuốt phẳng đưa cho nó. Nó không nhận. “Coi như ông mua trước của con mớ bông so đũa. Mai mốt về lại, ông ghé nhà con ăn tô canh chua bông so đũa con nấu nghe” - ông cười xoa đầu nó.
Bé so đũa lớn lên, đi làm ăn xa. Ở thành phố, mỗi lần nhận thư chị nói nước lên lé đé thềm nhà, nó lại giật mình thương mùa bông so đũa; nhớ nụ cười ấm áp của ông già mãi võ Sơn Đông. Trên con đường nhọc nhằn kiếm sống, ông đã không thể dửng dưng trước giọt nước mắt của một đứa trẻ xa lạ là nó ngày xưa; cả cái cách ông “giữ thể diện” cho nó khi muốn chia sẻ một đồng cực nhọc mưu sinh của mình.
Một đồng ông “đặt” mua bông so đũa ngày nào đến giờ nó cũng chưa trả được.
LÊ THÚY BẢO NHI
Món nợ ân tình.
Nỗi đau khổ lớn nhất của đời người là mất người thân. Ba năm trước, đứa con trai yêu quí nhất - thiên thần bé nhỏ đã rời bỏ tôi khi chuẩn bị vào lớp 1, còn tôi đã hơn 50. Mọi hi vọng, mọi toan tính đều sụp đổ hoàn toàn, đã hơn một lần tôi tính đường ra đi cùng với con ở nơi xa thẳm.
Sự bất lực của người cha, nỗi đau đớn vì sự vô trách nhiệm của các bác sĩ và đổ vỡ niềm tin nơi con người đã giày vò tôi mãi khôn nguôi.
Một thời gian rất dài không ăn, không ngủ, không làm việc, nhiều lần tôi đã cố đứng lên, nhưng mỗi lần tự đứng lên để vượt qua nỗi đau là một lần té nặng hơn khiến tôi dường như quị hẳn không thể nào đứng lên được nữa.
Trong những lúc cùng quẫn, có rất nhiều bàn tay chìa ra cho tôi: bạn bè, người thân và học trò. Cho đến giờ tôi cũng không hiểu có một sự sắp xếp nào đó hay không mà ngày nào cũng có ít nhất một sinh viên quanh quẩn bên tôi. Không bao giờ họ để tôi một mình, họ chỉ ngồi yên lặng bên cạnh tôi đã hóa đá trong nhiều ngày. Sự hiện diện lặng lẽ của họ có ý nghĩa nhất với tôi trong tột cùng của cô đơn và nỗi đau.
Cứ thế, mỗi ngày một chút họ vực tôi dậy, kéo tôi trở lại với đời sống và công việc với một thông điệp thiết tha: chúng em cần thầy. Họ cùng tôi đi qua các thời khắc nặng nề: 7, 21, 49 và 100 ngày. Nỗi đau tê dại khiến tôi không thể nào nhớ được những khuôn mặt nào đã ở bên tôi trong những ngày đó, nhưng các em đã truyền cho tôi sức mạnh về lòng nhân ái và sự chia sẻ.
Chính tình yêu thương của các em đã làm thức tỉnh nghĩa vụ, trách nhiệm của người thầy trong tôi. Các em làm cho tôi hiểu một điều quan trọng là tôi phải tiếp tục sống và quay trở lại với bục giảng. Nếu buông xuôi là tôi đã phụ lòng tin yêu của các em.
Dù nỗi đau vẫn còn nguyên vẹn, nhưng tôi đã tiếp tục công việc của một người thầy một cách xứng đáng. Chỉ có hành động mới là phương cách tốt nhất để trả ơn tất cả mọi người đã giúp đỡ mình một cách vô tư. Những thế hệ học trò sau này không hiểu tại sao tôi lại yêu giảng đường và gắn bó với sinh viên đến thế.
MINH QUANG
Hy vọng từ gánh xôi
Sinh ra trong một gia đình đông anh em, lớn lên trên mảnh đất miền Trung đầy nắng, gió và cát cùng những trận bão bất ngờ dữ dội, từ nhỏ Hà đã làm những công việc của người lớn để giúp bố mẹ. Cứ nhìn đôi bàn tay xương xương, sàm sạm mà thấy thương.
Khi nhận được giấy báo nhập học, cả nhà chưa kịp mừng đã lo. Sài Gòn đắt đỏ, rồi học phí… Cho nên đã mấy năm khăn gói rời quê Hà Tĩnh vào Nam nhập học, Hà vẫn “không chịu” về nhà mà ở lại Saigon làm thêm, chắt chiu từng đồng bạc lẻ để trang trải cho năm học.
Trong bộ quần áo nhìn có vẻ quê mùa, ít ai có thể ngờ cô gái nhỏ nhắn bán xôi trước cổng Khu chế xuất Linh Trung (P. Linh Xuân, Q.Thủ Đức) lại là sinh viên khoa xã hội học ĐH KHXH&NV.
4g sáng Hà dậy nấu xôi. 6g chạy ù ra cổng Khu chế xuất Linh Trung đứng bán. Bán xong là “bay” về phòng trọ đọc sách tham khảo, học bài, nấu nướng… 12g30 xách cặp đi học bằng chiếc xe đạp cà tàng hay “giở chứng”. 18g40 lọ mọ đạp xe lên hai con dốc học Anh văn. Tối về chong đèn học bài, đọc sách, luyện từ vựng đến 1-2g sáng.
Một ngày của Hà cứ tất bật như thế. Mỗi ngày Hà bán được 14-15kg gạo nếp. Nhưng dạo hè này bảo vệ đuổi dữ quá lại bị “cạnh tranh” nên chỉ nấu chừng 6-7kg. Ngót nghét mỗi ngày lời khoảng 20.000 - 30.000 đồng, Hà bỏ heo để dành dụm cho việc ăn học.
Lúc nào cũng tất bật, vội vàng nhưng chưa bao giờ thấy sự mỏi mệt, buông xuôi trong ánh mắt của cô sinh viên sống xa quê ấy.
MY LĂNG
Thiên thần hương
Trời cuối năm khá lạnh. Một hôm, đứa con gái nhỏ của tôi đi học về nhất định đòi mẹ phải tìm cho bằng được chiếc áo len màu hồng. Đó là chiếc áo cô út cho cháu nhưng vì cùng cỡ và màu áo đã mua nên tôi cất trong tủ.
Cầm áo trên tay, con gái đi đi lại lại vẻ suy nghĩ. Tôi thầm nghĩ: “Nếu giặt, ngâm nước xả thơm e sáng mai không khô kịp... Làm sao đây?”. Rồi vợ chồng tôi nhìn nhau cười: con gái bắt đầu biết “điệu”.
Bỗng cháu hỏi mượn chai dầu thơm của mẹ, lặng lẽ xịt nhẹ vào áo. Sáng hôm sau, con gái tôi bỗng dậy thật sớm, nhờ mẹ đưa đi học sớm hơn thường ngày.
Trên đường đi, con gái mới thủ thỉ: “Mẹ cho con tặng bạn Thủy áo lạnh mới nha. Bạn ấy nhà nghèo, mấy hôm nay con thấy bạn ấy mặc áo cũ mà còn bị chuột cắn mấy lỗ nữa; có bạn thọc tay vào mấy chỗ rách ấy để phá...”.
Vừa tới cổng trường thì bất ngờ bạn Thủy của con gái tôi với duy nhất một chiếc áo đồng phục, co ro vì lạnh cũng đang đi tới. Dường như sợ các bạn khác thấy nên con gái bảo tôi ngừng xe, choàng vội áo mới cho bạn. Tôi lặng lẽ hết nhìn bé Thủy lại nhìn con gái; hai đứa chăm chút cho nhau: đứa vuốt ve áo, đứa đưa áo lên mũi ngửi. Con gái tôi lùi ra một chút ngắm bạn, trầm trồ: “Bạn dễ thương quá!”.
...Trong lòng tôi, một ngày mới đã ấm áp hẳn và dường như thiên thần hương cũng đang lan tỏa quanh đây.
TRẦN THỊ HỒNG
“Duyên” của Lượm
23 tuổi, hẳn người ta sẽ có nhiều chọn lựa với những lối bước vào đời. Có một cô gái tuổi 23 ấy cũng đã lựa chọn công việc, hơn thế, một niềm vui: ngày ngày tìm đến những người già neo đơn ở chùa Diệu Pháp.
“Dậy ăn cơm bà Hai ơi”, vừa đánh thức, cô gái vừa đỡ bà cụ ngồi dậy. Cô nhẹ nhàng quàng tay bà cụ qua cổ mình, hai tay ôm ngang hông bà cụ đã gần 80 tuổi. Cụ có vẻ mệt mỏi, đôi mắt vẫn nhắm nghiền, thoạt nhìn không khác người trong gia đình. Và hai năm qua, những hình ảnh gần gũi như thế đã chẳng còn xa lạ với bất kỳ ai trong ngôi chùa nặng tình người này.
Mới đó đã mấy năm cô đón tết trong chùa cùng các cụ. Trước đó, một lần rảnh rỗi theo cô Bảy (cô ruột) vào chùa chơi, thấy cô Bảy bận rộn quá, hết chăm người này lại chạy lo cho người khác nên cô cháu gái cũng lăng xăng làm theo. Làm chút xíu chuyện vậy mà về nhà cứ thấy nôn nao trong dạ.
Rồi chẳng đợi cô Bảy rủ, mấy lần sau cô tự xin theo. Lạ là càng làm càng thấy yêu các cụ dù nhiều khi cũng bực mình lắm vì bị mấy cụ khó tính la oan. Cũng đành, vì chỗ cô chọn toàn các cụ cao tuổi, nhiều bệnh tật và đa số đã lẫn, chẳng mấy cụ tự làm được ngay cả sinh hoạt hằng ngày. Có cụ khi được hỏi chuyện lúc nào cũng trả lời mình mới sáu tuổi. Có cụ vừa ăn xong, chén chưa kịp rửa đã kêu sao chưa cho ăn.
Nhà ở quận 6, cô xin ở lại luôn với các cụ để tiện chăm sóc, lúc nào rảnh lắm hoặc có ai thay thế cô mới tranh thủ ghé về nhà. Một ngày của cô bắt đầu từ 4g sáng bằng việc vệ sinh, tắm rửa rồi cho các cụ ăn, sau đó đi dọn phòng.
Lịch là vậy nhưng có hôm 10g đêm đang ngon giấc, cô đã bị gọi dậy dọn dẹp vì có cụ đi vệ sinh. Mà có phải thỉnh thoảng gì cho cam. 12 cụ cô nhận chăm sóc cùng một chị nữa thì có đến phân nửa cụ đã lẫn. Mấy lần cũng định bụng thôi không làm nữa, nộp đơn đi làm công nhân cho đỡ vất vả, nhưng rồi cô lại thôi vì “bỏ các cụ đi không đành”.
Người nhà Phật vẫn quen dùng chữ “duyên” để chỉ các mối quan hệ, những sự tiếp xúc, gặp gỡ mà đôi khi chỉ là tình cờ. Với cô gái ấy, điều này có lẽ chính cô cũng chẳng thể lý giải được vì sao mình lại đến và có thể gắn bó với nơi đây như thế.
Có lẽ cũng bởi những câu chuyện đời của 37 phận người cô đã đôi lần được nghe cứ níu bước chân cô ở lại. Nhiều người cũng có con cháu đấy nhưng trừ lần mang vào đây gửi hầu như chưa thấy quay lại bao giờ. Phần nhiều các cụ chẳng còn nhớ nổi mình ở đâu, chỉ biết sáng sớm đã thấy ngồi trước cổng chùa mà hỏi gì cũng lắc đầu.
Nên với các cụ, từ lúc nào rồi cô đã như một phần ruột thịt. Cụ bà Kha Thị Giác mà mọi người vẫn gọi là bà Cao, đã 72 tuổi và là người ít ỏi còn lại chưa bị lẫn trí trong khu vực dành riêng cho những người cần được chăm sóc đặc biệt, chỉ chậm rãi bảo: “Lạ lắm, nhiều người khó tính la hoài mà chưa bao giờ thấy cổ giận”.
…Cô gái ấy tên Nguyễn Thị Mỹ Loan nhưng ở ngôi chùa Diệu Pháp (188 Nơ Trang Long, P.13, Q.Bình Thạnh, TP.HCM) mọi người vẫn thân mật gọi cô với cái tên trìu mến: cô Lượm!
QUỐC LINH
Nồi thịt đông của má
Gần Tết, như bao nhiêu kẻ xa nhà, cứ háo hức nôn nao đánh dấu vào tờ lịch đếm ngược từng ngày. Về đến nhà thì đã áp Tết, nhà cửa đã dọn dẹp, trang hoàng tinh tươm từ hồi nào. Để tránh cho ta cái cảm giác “kẻ vô dụng trong công cuộc chuẩn bị Tết nhất trong nhà”, má giao nhiệm vụ cao cả: canh nồi thịt đông.
Ba sinh ra ở miền Nam nhưng ông bà là người Bắc nên từ nhỏ đã trót nặng lòng với cái phong vị Tết rất Bắc: thịt nấu đông. Chả thế mà từ ngày lấy ba, má - cô con dâu khác miền đã cặm cụi theo bà nội học làm cho bằng được món này, thật ngon, thật giống.
Ta được “ăn theo” ba, rồi ghiền lúc nào không biết. Tết nhất, đi chơi đã đời, vừa mệt vừa đói, về tới nhà cắt một tảng thịt đông rồi xắt lát vừa ăn. Tiếp theo đó là bật bếp hâm nồi mắm nêm má đã pha sẵn, lúi húi lục rau sống, chuối chát, khế, dưa leo xắt dọc… trong ngăn rau tủ lạnh; tranh thủ nhúng xấp bánh tráng rồI cứ thế mà vừa dỗ yên cái dạ dày vừa cảm thán: Trời ơi là ngon!
Ba mươi Tết, má ra chợ từ sáng sớm lấy cặp giò heo đã dặn sẵn từ hôm qua. Ta ham ngủ nướng, nghe tiếng động dao động thớt mới mắt nhắm mắt mở ngồi dậy, bước xuống bếp đã thấy má pha xong thịt từ lúc nào: xương, da, nạc…
Má hay chậc lưỡi, đáng lẽ phải có thêm một con gà giò mới đúng kiểu của bà nội hay làm ngày xưa, nhưng thôi đành vậy. Tết bây giờ bận bịu lu bù quá! Hai má con nhờ ba vần cái lò đất trong góc nhà ra, đốt than tổ ong (nấu thịt đông mà xài bếp gas chịu không thấu). Má bắc cái nồi lớn, cho tất cả vô hầm, rồi lại tất tả xách giỏ đi chợ mua hoa, trái cây sau khi dặn đi dặn lại “Ngồi canh, nước cạn thì châm thêm, thấy có bọt nổi lên thì hớt đi nghe con” .
Tôi bó gối ngồi nhìn nồi thịt sôi ùng ục, cảm giác như mình đang làm công việc quan trọng nhất trần đời. Má về, soạn đồ trong giỏ ra, quẳng cho tôi mấy củ cà rốt biểu tỉa hoa, xắt lát rồi xếp vào đáy mấy thố nhựa cứng để mai mốt trong tảng thịt đông có màu đỏ của hoa cà rốt cho đẹp. Rồi má múc thịt nhẹ nhẹ, từ từ vào thố. Để đến khi nguội, mặt hỗn hợp thịt keo lại một màng mỡ thì cho vô tủ lạnh.
Tết miền Nam làm gì có cái rét ngọt của xứ Bắc để nồi thịt đông lại một cách tự nhiên. Từ lúc đó, cứ nhấp nhỏm mở ra mở vô cái tủ lạnh để rồi sung sướng khi thấy tảng thịt đông lại với lớp mỡ trong veo như một thứ đông sương kì diệu.
Mùng một, má dọn thịt đông. Ba không nói gì, cứ hết nhìn mâm cơm rồi nhìn má hoài hoài thay cho ngàn lời cảm ơn trìu mến. Hương vị Tết trong một miền kí ức của ba được má sẻ chia, dịu dàng, nguyên vẹn…
NHÃ ANH
Màu hoa trong nắng se vàng
Cứ mỗi năm vào độ cuối thu nơi góc vườn cũ, mẹ thường để lại một khoảng đất trống để gieo hạt giống hoa vạn thọ.
Ngày tôi xa mẹ để lên thành phố, mẹ dẫn ra góc vườn chỉ khoảng đất trống, nơi mỗi độ cuối thu mẹ vẫn dành để gieo hạt giống hoa vạn thọ. Nghĩa là đi đâu thì đi nhưng mỗi ngày tết vào năm mới phải về với mẹ, với những ngày vàng hoa vạn thọ.
Nhớ ngày còn nhỏ, cứ mỗi lần cha tra hạt giống dọc theo bờ rào tre bao quanh sân là tôi ngóng tết, mà ở quê dân đất giồng xứ "nẫu" nhà nào trên chái bếp lại không có bó hoa vạn thọ khô để lấy giống với mùa gọi mùa. Hoa để đơm cúng ông bà, vào chậu làm kiểng trang trí trong lời chúc tụng khi xuân về thì ngoài bánh mứt, mâm cỗ thêm hoa vạn thọ tỏa lan.
Năm đầu tiên tôi về, mẹ đang cặm cụi góc vườn để cắt tỉa lá luống hoa vạn thọ khi trời còn mờ sương đến giờ đã hanh hanh nắng vàng. Bên cạnh mẹ là những bẹ chuối già ngâm nước để tước dây cuốn từng bó vạn thọ trổ nụ xếp ngay ngắn, chút nữa thôi chị tôi, anh tôi, chú tôi sẽ đến mang về cúng ông bà. Mẹ hân hoan khi thấy tôi trở về và những bó hoa vạn thọ qua tay tôi để vào từng lọ bình đặt lên bàn thờ gia tiên.
Tết năm sau tôi nhắn chị bảo là không thể về đón tết bên mẹ. Tôi biết mẹ buồn, một mình lầm lũi bên khoảng đất, góc vườn đã vàng hoa vạn thọ có chút nắng hanh se se lạnh, có từng bầy chim thiên di vượt dòng sông bay qua, văng vẳng tiếng nói cười bên bờ rào hàng xóm. Tôi biết mẹ ngóng chờ kể từ lúc lấy trên gác bếp chùm hoa giống đem ngâm rồi ra góc vườn đánh luống, mừng vui khi cây nhú mầm, đợi chờ khi tưới từng đôi gàu sòng cất nước sông quê và ngày càng ngóng trông khi cây trổ nụ hòa cùng màu nắng vàng hoa.
Mẹ tôi nuôi các con dần trưởng thành để vỗ cánh bay xa, mỗi năm nơi góc vườn luôn vàng hoa vạn thọ để đợi những đứa con về. Rồi mẹ cũng lặng lẽ ra đi. Trong một chiều cuối năm tôi trở về đến bên khoảng đất có góc vườn vàng hoa vạn thọ ngày cũ. Bây giờ, chị tôi trở về mái nhà xưa và đã trồng lên vạt đất ấy những luống rau xanh nối liền vườn cũ, hòa vào một màu xanh của dòng sông trôi trong tứ mùa bên cạnh.
Không màu vàng hoa, chỉ còn khói sương bảng lảng cuộn dâng. Làn khói ấy, mỗi khi tôi về cứ ngỡ mái tóc mẹ ngày nào, vừa sương khói vừa như một dòng sông hoài niệm có một con thuyền nhỏ đã chở cả đời người là mẹ. Một dòng sông hoa vàng rộng chảy đâu chỉ khoảnh đất nhỏ ngày nào. Trong tơ sương khói biếc ấy, tôi vẫn mang trong lòng một khoảng đất nhỏ vàng hoa vạn thọ mỗi năm vào mùa xuân về, có mẹ, có những hoài niệm cũ của những năm tháng ấu thơ rồi chập chững vào đời đã dần trôi đi trong kỷ niệm.
HUỲNH THẠCH THẢO
Vườn đào của bố
Nhà mình có một vườn đào. Mỗi năm, những ngày giáp Tết, nhìn những gốc đào còn lại trong vườn là biết Tết này với nhà mình vui hay buồn, sung túc hay đơn giản.
Bố bảo, Tết hạnh phúc nhất của bố là cái Tết được đánh gốc đào xấu nhất của vườn để chưng trong nhà, vì nghĩa là năm ấy, đào đã được bán hết. Mẹ và con có thêm tấm áo mới, bố có thêm bình rượu thơm, và nồi bánh chưng đêm 30 sẽ dầy lên hạnh phúc.
365 ngày, bố quanh quẩn với vườn đào. Bố tỉa lá, phun sâu, cắt chiết, uốn cành. Những cây đào đủ mọi tư thế, đủ mọi tầng, mọi cành, mọi màu. Mỗi cây đào bố đều gửi một ý nghĩa, một lời nguyện ước may mắn và thành công để rồi những cành đào ấy khoe sắc trong bao nhà những ngày Tết đến xuân về.
Năm nay, bố cứ trông chừng trời đất, thỉnh thoảng lại thở dài, thỉnh thoảng lại đưa mắt nhìn vườn đào âu lo. Thời tiết thất thường làm những tính toán và kinh nghiệm lâu năm của bố sai lệch. Vườn đào đôi cành đã khoe hoa, bật nụ, những vẩy rồng đã sần lên đầy mong ước sẵn sàng cho những ngày Tết. Nhưng hầu hết, các cành đào đều còi cọc, mầm lá chưa xanh, những cành đào gầy và khẳng khiu như hàng rào.
Nhìn mắt bố, biết bố đang lo những nụ đào câm khi từng tờ lịch đang vơi cạn dần.
Bố ơi, đừng lo nữa bố! Bố biết không, đã bao lần con muốn nói với bố rằng vườn đào chỉ làm cho ngày Tết đẹp hơn, chứ nó không làm nên ngày Tết!
NGUYỄN TRUNG THU (Hà Nội)
Bài học từ một cuộc phỏng vấn
Tôi nhìn hai anh em và khóc. Sau mỗi cuộc đời là một số phận. Lẽ ra tôi không nên kết luận về một con người khi chưa tìm hiểu. Lẽ ra tôi nên biết nhìn nhận và lắng nghe. Tôi chỉ biết xin lỗi anh. Tự hứa sẽ quay lại chăm sóc nhiều hơn cho em gái anh - như một lời tạ lỗi muộn màng.
Ngày Tết cận kề, công ty tôi tổ chức quyên góp, tặng quà cho những gia đình nghèo ở quận 7. Nơi đầu tiên tôi đến là một căn nhà tồi tàn dưới chân cầu Tân Thuận. Em gái nhỏ xíu, ở trong căn nhà nhỏ xíu.
Khuôn mặt em đẫm nước mắt khi kể lại cách đây 6 tháng, mẹ em bị tai nạn giao thông phải nằm bệnh viện Chợ Rẫy. Gia đình phải bán hết mọi thứ để lo cho mẹ một ngày gần hai triệu tiền thuốc, nhưng chỉ được 1 tháng sau mẹ qua đời. Đau đớn hơn, ba tháng sau ba em cũng bị té xe chấn thương sọ não nằm hôn mê ở bệnh viện Chợ Rẫy. Nhà còn gì giá trị phải đem bán nốt, cái gì bán không được thì năn nỉ người quen cầm cố giúp. Anh trai em làm công trình ở Cần Thơ phải bỏ việc về chăm ba ngày đêm.
Nhưng ba em cũng chỉ tồn tại được ở phòng chăm sóc đặc biệt được 3 tuần là ra đi, chỉ được một lần mở mắt lặng lẽ nhìn hai anh em rồi hôn mê sâu vĩnh viễn. Hai anh em chỉ biết ôm nhau khóc, trên vai là cả gánh nặng tinh thần lẫn vật chất.
Ai cũng rơi nước mắt. Mọi người đang giúp em dọn dẹp, bày đồ cúng lên bàn thờ thì anh trai em về đến. Đó là một thanh niên nhỏ con, ốm yếu. Nhìn rất quen, hình như tôi đã gặp một lần ở đâu đó.
Người thanh niên đến chào tôi và hỏi như thể có dịp để nói “Chị còn nhớ tôi không? Tôi đã xin việc ở công ty chị đấy”.
Tôi sửng sốt khi nhớ lại đợt công ty cần tuyển nhân viên mới, tôi ở vị trí sơ tuyển. Người thứ 10 phỏng vấn là một thanh niên nhỏ con, ốm yếu, khoác một bộ đồ ngay ngắn nhưng đã bạc màu. Trong bộ hồ sơ xin việc tôi không thấy có bằng đại học mà chỉ thấy bảng điểm của năm học cuối cùng, là tháng 10-2000. Tôi rất ngạc nhiên vì đã 5 năm qua lẽ nào anh ta không thể hoàn tất để nhận bằng tốt nghiệp? Khi tôi đưa ra câu hỏi trên, anh ta im lặng, mắt nhìn xuống.
Không đợi anh ta trả lời, tôi ngọt ngào: “Chắc anh không đủ khả năng theo đến cùng? Thời bây giờ nhiều người học 6, 7 năm trời mới kiếm ra tấm bằng. Mà có người ham chơi bị nhà trường cấm hẳn luôn kia”. Anh ta ngước đôi mắt ngạc nhiên nhìn tôi, nhưng chưa kịp nói gì tôi đã gọi người kế tiếp. Anh ta đứng lại một lát như tính nói gì, rồi lại thôi lặng lẽ đi ra.
Anh giảng giải cho tôi : “Tôi đã lấy bằng tốt nghiệp ĐH, năn nỉ một người quen cho vay năm triệu để lo tiền thuốc cho ba tôi, nhưng cũng chỉ thêm được có mấy ngày là ông ra đi…”
Người thanh niên gồng mình cố ngăn dòng nước mắt nói tiếp “Lúc đó tôi không thể giải thích, nhưng tôi không phải là người ham chơi bỏ bê học hành như chị nghĩ. Tôi biết hồ sơ xin việc của tôi không hợp lệ, lại trái nghề, nhưng tôi cần một công việc để trả nợ và lo cho em gái tôi, nó cũng chẳng còn ai…”.
Tôi nhìn hai anh em và khóc. Sau mỗi cuộc đời là một số phận. Lẽ ra tôi không nên kết luận về một con người khi chưa tìm hiểu. Lẽ ra tôi nên biết nhìn nhận và lắng nghe.
Tôi chỉ biết xin lỗi anh. Tự hứa sẽ quay lại chăm sóc nhiều hơn cho em gái anh - như một lời tạ lỗi muộn màng.
BẢO NGỌC
Được làm chị
Mới có một tuần mà Su thấy mình lớn hẳn. Dễ nhận ra nhất là đã bớt mè nheo với mẹ. Su đã biết phụ mẹ những việc nho nhỏ nằm trong “khả năng“ của mình như : lấy cho em bé cái tã, lục tìm trong thùng quần áo cái khăn để mẹ lau khuôn mặt nhỏ nhỏ xinh xinh của em.
Su nghĩ mình còn có thể làm được nhiều việc hơn nữa để giúp mẹ.
Em bé nhỏ thật, nằm gọn trong cái khăn lông trắng muốt, cả ngày lúc nào cũng nhắm tịt cả hai mắt chẳng thèm nhìn chị, chỉ lo ngủ thôi! Su đi vòng vòng quanh giường nhìn em, không dám trèo lên vì sợ em thức giấc. Mẹ không có dặn đâu nha, tự Su biết đấy! Thỉnh thoảng em có cựa quậy, như chợt thức giấc. Những khi ấy Su cứ đứng đợi hoài, nhìn chăm chú vào đôi mắt em, mong chờ em he hé mắt nhìn mình. Nhưng rồi em lại ngủ. “Em còn nhỏ nên ngủ nhiều“, mẹ bảo Su thế – “Em ngủ để mau lớn lên chơi với chị Su đó!”. Su thấy thương em quá!
Nhớ lúc mẹ vừa sinh em. Su nhớ như in đó là vào buổi sáng sớm Su vừa thức dậy. Không như mọi hôm Su nằm mãi trên giường, đợi ba hay mẹ vào cho Su ngoắc tay vào cổ kéo dậy . Hôm đó, choàng tỉnh dậy, vừa nhìn thấy ba lui cui gom mấy đồ đạc : bình thuỷ này, khăn , cà-men, có cả áo ấm cho mẹ vào cái giỏ xanh xanh đi chợ của mẹ và nghe ba thông báo rằng “Su có em rồi nha, có muốn đi thăm em với ba không?”, là Su vội vàng lẳng lặng ngồi phắt dậy, tự động xếp gọn lại gối mền của mình, tuột vội xuống giường, tự đánh răng rửa mặt, thay quần áo một mình, xong xuôi đâu đó đứng cạnh ba chờ đợi. Su mong chờ được nhìn thấy em! Chỉ được nghe mẹ miêu tả em thế này thế kia mỗi lần Su áp sát tai vào bụng mẹ nghe ngóng, Su chưa tưởng tượng được hết .
Su có nhiều đồ chơi lắm, từ nay phải để dành hết cho em! Búp bê này, đồ hàng nồi niêu xoong chảo này; cả những hột na đen nhánh bữa giờ Su để dành lại để chơi ô quan, chơi nấu nướng mà Su rất thích, Su cũng dành cho em luôn. À, còn mấy sợi dây thun chơi nhảy dây bữa giờ Su thắt đến mỏi nhừ cả hai ngón chân cái nữa chứ, chắc là em Su sẽ thích lắm! Nhưng biết chừng nào em mới chơi được nhỉ, thôi cứ cất ở đó để đợi em vậy !
Su không thích ai nói là từ nay mẹ hết thương Su mà chỉ thương em bé. Em còn nhỏ mẹ phải thương em hơn rồi. Su còn mong mẹ thương em hơn nữa kìa, vì Su lớn rồi, “tự lo cho mình được rồi”. Mẹ nói “Có em để mai mốt phụ chị, đỡ đần cho chị nha!“. Nhưng Su thấy mình phải thương em trước đã, vì em còn bé lắm! Em ơi lớn nhanh để chị dạy em đọc chữ, học hát nha, hôm qua cô giáo mới dạy chị bài hát mới hay lắm.
TRẦN NGUYỄN TUYẾT ANH
Mẹ, con và người giúp việc
Vợ tôi sinh cháu thứ hai hơn 4 tháng. Nhà ít người nhưng bận bịu và chật chội, chúng tôi quyết định chỉ tìm người giúp việc ban ngày. Công việc chính là bế cháu và phụ lo cơm nước.
Bà giúp việc của gia đình tôi tuổi gần 60, hơi vụng về nhưng hiền lành, ngay thật. Quan hệ giữa bà với vợ chồng tôi khá đơn giản và thoải mái, nhưng có điều lạ là cô con gái đầu 7 tuổi của chúng tôi rất hay “dị ứng” với bà. Buổi sáng, khi bà đến chúng tôi còn trên gác, con bé đã có mặt dưới nhà “theo dõi” từng động tác của bà. Chốc chốc nó lại căn vặn: “Tại sao bà làm thế?”. Những lúc đó bà thường im lặng, còn con bé thì chắp tay ra sau, lẩm bẩm trong mồm: “Rõ thật vô tích sự!”. Chúng tôi nhắc nhở, nó không phản ứng, song có vẻ ngấm ngầm và quyết liệt hơn.
Một hôm, trong khi bà đang cho cháu nhỏ ăn, nó đi học về, luôn mồm kêu đói và gắt: “Bà làm cho cháu bát cơm!”. Bà nhỏ nhẹ: “Cơm bà nấu rồi, cháu tự lấy ăn hay cố chờ bà, đỡ lỡ bữa ăn của em nhé!”. Chỉ có thế, con bé đã gào lên: “Bà là người ở, tại sao lại bắt cháu chờ. Bố mẹ cháu trả tiền để bà làm thế hả?”. Không hiểu bà đã nghĩ gì, chỉ biết khi kể lại câu chuyện đó với chúng tôi, đôi mắt bà rưng rưng.
Tôi định mắng con, nhưng vợ tôi can: “Em muốn nghĩ thêm về mọi chuyện”. “Còn gì nữa, nếu cứ tiếp tục thế này, tâm hồn của nó sẽ chai lì đi mất” - Tôi gắt. Vợ tôi gật đầu: “Anh nói đúng. Chính vì thế mới cần suy nghĩ”. Vợ tôi nói chuyện với bà giúp việc một lát.
Sáng hôm sau, bà giúp việc đến. Con bé thức dậy, rón rén xuống nhà, vợ tôi lẳng lặng bước theo. Từ phòng trên, tôi nghe tiếng lách cách mở cổng và tiếng vợ tôi vui vẻ: “Cháu chào cô ạ! Hôm qua rét thế cô ngủ được không?”. Đến giờ ăn trưa, đợi con bé ngồi vào mâm, vợ tôi cầm bát cơm, quay sang bà giúp việc: “Cháu mời cô xơi cơm! Cháu xin lỗi, hôm nay nhiều việc quá nên cháu về hơi muộn!”.
Con bé hơi nhíu mày, vẻ miễn cưỡng rồi cũng lí nhí: “Cháu… mời bà”. Tối đến trước khi đi ngủ, vợ tôi đã kể với cháu về bà như một người mẹ đáng kính: chồng mất khi con bà còn bé, bà đã hết mực thương yêu và làm lụng nuôi con. Còn bây giờ bà đi làm để tìm kiếm niềm vui và dành dụm giúp con mình lập nghiệp: “Bà ấy làm việc vì con. Mẹ cũng thế. Nếu mẹ bị người ta mắng mỏ, con có buồn không?”. Con tôi im lặng, chốc chốc lại trở mình như cố giấu tiếng thở dài. Có vẻ nó bị bất ngờ trước những điều mẹ nói.
Sáng ra, khi chúng tôi còn ngái ngủ, con bé đã xuống nhà từ lúc nào. Bà giúp việc đến. Tiếng lách cách mở cổng. Tiếng bước chân vào nhà và sau yên lặng là tiếng thỏ thẻ trong vắt của con tôi: “Cháu chào bà! Tối qua bà ngủ có ngon không? Cháu xin lỗi bà, từ nay cháu sẽ không làm bà buồn nữa đâu bà ạ!”.
HÀ TRANG
Không và có
Các em yêu quý,
Anh còn nhớ rất rõ câu chuyện của ba dạy về phép làm toán. Đó là hồi anh mới năm tuổi, ba bắt đầu dạy làm các phép tính đơn giản. Các em hẳn biết rằng ba của chúng ta chỉ có cách dạy theo những điều gần gũi trong cuộc sống.
Một lần anh hỏi ba: “Ba ơi, có phải mình cộng nhiều số không lại thì sẽ được số một?”. Các em đừng cười! Trong đầu óc non nớt của một đứa trẻ lập luận rất đơn giản: hẳn là cộng nhiều thứ lại với nhau thì chắc phải được một thứ lớn hơn, nhiều hơn!
Nếu chúng ta theo đại số mà tính lại thì nếu lấy số âm là cộng cho nhau thì kết quả càng âm, tức càng đi xa số không hơn. Nếu con của các em hỏi như thế thì các em sẽ trả lời ra sao? Ba của chúng ta đã trả lời rất đơn giản: “Nếu hôm nay vịt nhà ta không đẻ trứng nào, ngày mai cũng vậy, ngày mốt cũng thế, vậy thì con có được trứng nào không?”. Nghe ba trả lời, anh “à ra thế”, dù có hàng vạn số không cộng lại với nhau cũng không thể nào được một số nào khác ngoài số không.
Lớn lên, anh thấy đó là một triết lý sâu sắc. Đó là ba đã vận dụng một triết lý trong thực tế cuộc sống. Đã không rồi thì không thể nào có được!
Các em yêu quý,
Cuộc sống này cũng vậy thôi. Các em mong mỏi mình sẽ có được những điều lớn lao, tốt đẹp trong cuộc sống thì phải trải qua những cái “có” nhỏ nhặt đầu tiên, chứ không thể bỗng nhiên mà có. Này nhé, em gái, em đã là cô giáo, thì những cái “có” đầu tiên của em là lòng say mê làm cô giáo từ khi em còn chưa đi học; là quá trình nhiều năm dài tích lũy kiến thức; là sự rèn luyện trình độ, nhân cách của một người giáo viên.
Còn em trai, em đang là cử nhân vi sinh vật, là kết quả của nhiều năm tìm tòi, khám phá những điều kỳ diệu của tự nhiên trong chùm phong lan dại hay bụi chuối sau nhà, thậm chí cả bầy nòng nọc mỗi mùa mưa đặc sệt ở các vũng nước; là sự chịu khó nghiên cứu học tập qua hàng loạt thí nghiệm, thực nghiệm.
Nay mai, các em có muốn trở thành những người đi sâu hơn trong lĩnh vực của mình, các em cũng phải tích lũy từ những cái “có” đã qua và những cái sẽ tới. Đó là một quá trình dài, liên tục, đòi hỏi sự nỗ lực cao độ, bền bỉ.
Anh dặn dò các em cũng chính là tự răn mình, không được lơ là trong cuộc sống. Chúng ta đứng lại tức là thụt lùi vì thế giới này luôn vận động tiến về phía trước. Anh em chúng ta phải không ngừng phấn đấu trong học tập, trong công tác và trong các mặt của cuộc sống, nếu không muốn mình bị đào thải.
Anh càng nhớ câu chuyện “có - không” của ba nhiều năm trước, lại càng trân trọng sự hi sinh của ba và mẹ, những người đã cho chúng ta những điều “có” đầu tiên vô giá của cuộc đời!
TRÚC GIANG
Em bé bán cát
Như thế là đến cái Tết thứ ba, dọc đường vào chợ xuân Đồng Hới, tôi lại gặp em ngồi đấy, đúng chỗ ấy, hai tay vân vê chậu cát trắng tinh. Em tên Thảo, 13 tuổi, còi cọc, phong phanh áo xống, co ro trong gió lạnh buốt xương, chiếc nón cời đặt bên cạnh, trong đó đựng cái ống bơ dùng để đong cát.
Em đến chợ rất sớm, thân người gầy nghiêng hẳn về một phía, hai cánh tay bấu lấy thành chậu cát trắng nặng trĩu. Chọn chỗ, em ngồi như bất động, hai bàn tay khoả nhẹ trên mặt cát. Trước mặt sau lưng em, hàng tết bày bán la liệt, hoa quả, bánh trái, đủ sắc màu, chỉ có riêng hàng tết em bán màu trắng.
Hình như đã quá nửa buổi sáng, hàng trong chợ bán đã giòn, người mua dần vãn, nhưng chậu cát trước mặt em vẫn nguyên xi. Hai bàn tay gầy của em vẫn bình thản khoả trên mặt cát. Và im lặng, bán như không bán, như đang chờ đợi. Tôi lân la bên cạnh. "Nhà em ở đâu?". Lắc đầu. "Ai bày cho em đi bán cát chợ tết?". "Mẹ". "Mẹ em đâu?". Lắc đầu. Tôi to tiếng: "Quê mình toàn cát, ai còn thiếu gì cát mà còn đem bán cát. Từ sáng tới giờ ai mua đâu?". Thảo cười, không tranh luận.
Tôi đi một vòng, mua đủ hàng tết cho nhà mình rồi quay lại. Em vẫn ngồi đấy. Chậu cát trắng vẫn nguyên. Chiều chợ vãn. Còn em, ngồi yên, chậu cát vẫn nguyên. Thấy tôi quay lại, em cười rất tươi, bê chậu cát, trút hết vào cái bao nhỏ, đặt lên xe tôi: "Cháu tặng chú. Rứa là hôm nay không ai mua". "Thì ngày mai bán". " Ngày mai có cát ngày mai chú ạ". "Thế thì cho chú gửi tiền". Con bé cười. "Năm trăm đồng một lon, chậu này 20 lon, nếu chú trả tiền thì phải trả mười ngàn". "Thì mười ngàn đây này". "Cháu đùa. Cháu cho chú". "Thế thì chú cho cháu tiền, lì xì năm mới cũng được".
Tôi nảy ra ý đi theo cô bé. Thảo không về nhà mà đi thẳng lên đỉnh cát trắng. Khi chỉ còn một mình Thảo và tôi, Thảo bỗng như thay đổi hẳn tính nết, nói huyên thuyên, trò chuyện, tựa như thế giới của những triền cát trắng này là của riêng Thảo. "Chú ạ. Cát cháu đem bán là cát trên đỉnh, trắng, sạch. Cháu mang cát ở đây về, xối rửa qua nước, phơi khô, sàng sảy, sạch tinh mới đem bán. Mỗi năm cháu chỉ bán cát có một tuần trước tết. Mẹ cháu nói, cát này người ta mua, cho vào lư hương để cắm nhang, thiêng lắm. Nhưng răng không ai mua hả chú?".
Tôi nói: "Chú đã nói rồi, quê mình toàn cát trắng, nhà ai cần cắm hương thì đi lấy cát về dùng, ai đi mua. Mà sao không ai mua mà cháu vẫn đem bán?". Thảo im lặng lâu, mới nói: "Ngày mẹ cháu đi khỏi nhà, mẹ nói, sau này nếu có dịp về quê, mẹ sẽ ra chợ tết, nếu để mẹ con nhận ra nhau, con chỉ cần ngồi với chậu cát trắng ở chợ là mẹ nhận ra...". Gió thổi hùn hụt. Những đỉnh cát trắng tinh buốt lạnh trong gió rét. Tôi co ro ngồi bên Thảo. "Cha mẹ cháu bỏ nhau. Mẹ cháu đi khỏi nhà lâu lắm rồi. Cha cháu chết rồi. Cháu sống bằng nghề bán vé số. Tết nào cháu cũng đi bán cát để tìm mẹ...".
Tôi mang chuyện Thảo kể với mọi người. Hôm sau, rất lạ, chỉ trong chốc lát, chậu cát trắng của bé Thảo bán hết veo, người ta nghe đồn cát đó thiêng nên tranh nhau mua. Hôm sau nữa cũng bán hết veo. Trẻ con thấy vậy đua nhau lấy cát về ngồi bán. Một dãy hàng cát trước cổng chợ, toàn những bé gái sàn sàn tuổi Thảo. Tôi đang vui vì Thảo bán được cát lại trĩu buồn vì nghe thấy người hàng chợ nói với nhau: "Hôm qua có người đàn bà về đây tìm con gái. Con gái chị ấy bán cát. Nhưng nhiều đứa bé bán cát quá, chị ấy không nhận ra con mình. Vội việc, chị ấy đi rồi...". Tôi không dám kể chuyện đó cho bé Thảo. Hoá ra vì tôi, bởi nếu không bán được cát thì Thảo đã gặp mẹ. Nhìn Thảo tung tăng đi ngược lên đỉnh cát, tôi chạy theo.
Không ngờ, trên xa tít đỉnh cát kia, một người đàn bà đang đứng ngóng đợi. Tôi trào nước mắt.
(Nguyễn Quang Vinh)
Hối hả
Tôi vào Saigon sinh sống dù cách quê nhà 70km, nhưng một năm tôi chỉ về thăm nhà đôi lần, vì công việc, vì học hành con cái, vì quan hệ…
Rất nhiều lần tôi thử nhẩm: nếu một năm tôi về quê gặp bố mẹ hai lần, giả định cha mẹ già sống dư 10 năm nữa thì cũng chỉ gặp được 20 lần thôi! 20 lần! Ôi có là bao… Dù biết như thế nhưng tôi cứ hẹn với lòng: “năm sau cố gắng thu xếp về nhiều hơn chút nữa”…
Bất ngờ hay tin ba bệnh, nghĩ là bệnh già cũng là trái gió trở trời, cao huyết áp thì cũng thường xuyên! Nào hay khi đến bệnh viện khám, mới biết rằng ba chỉ sống ngày sống tháng… Tin đó làm chị em tôi hốt hoảng, sợ rằng không kịp báo hiếu, không kịp thực hiện được điều mình hằng dự tính cho cha? Ôi, công việc hiện tại sao mà nó cứ như vòng xoáy, xoáy mình vào cho đến ngỡ ngàng.
Những ngày ở Saigon khám bệnh, cứ ép ba ở đây để con được phụng dưỡng ba dăm ngày, ba lại cứ thích về quê nhà, mà cũng là ái ngại cho sự bận bịu của con. Ba yếu rồi không đi đâu được nữa. 9g tối công việc tạm xong, hối hả rủ mẹ đi siêu thị chơi để cả đời không biết, mấy chị em nài nỉ mãi mẹ mới đồng ý đi.
Mẹ không mua chi hết, chỉ xin mua cái ấm về sắc thuốc cho cha. Siêu thị đêm sắp hết giờ, lưa thưa, vắng vẻ, con giải thích cho mẹ nghe về cầu thang cuốn, về số lượng người, về hệ thống tính tiền. Mẹ tiếc nuối vu vơ: Cầu thang cuốn ngưng hoạt động rồi uổng quá! Thuở giờ chưa biết ra sao! Con bảo họ bán đắt lắm sao mẹ thấy đồ ế nhiều dữ vậy!
Lời bà mẹ nhà quê làm con nghẹn ngào hối hả. Thời gian còn bao nhiêu để con chăm cha mẹ nhiều hơn.
HẠ QUYÊN
Chiếc cần câu của gia đình tôi
Tôi đậu đại học vào khoảng thời gian gia đình gặp nhiều khó khăn nhất. Tuy vậy việc học của tôi chẳng có gì là trở ngại vì ba mẹ tôi sẵn sàng hi sinh nhiều thứ để con cái được học đến nơi đến chốn.
Gia đình chúng tôi khi ấy sống trong mái nhà lá rách nát. Mỗi khi mưa xuống, nước dột đọng thành vũng trên nền đất ẩm ướt. Khách đến nhà thậm chí không có được chỗ đàng hoàng để ngồi. Những năm 1990, nghề mộc của ba tôi dần dần trở nên khó sống. Tôi không biết rõ vì lý do gì mà những chiếc bàn, chiếc tủ đẹp sắc sảo của ba tôi (cũng như nhiều tiệm đồ gỗ khác) không còn được ưa chuộng nữa.
Đó cũng là tình hình chung của nghề mộc lúc ấy. Một phần có thể vì những thứ ấy không thích hợp với cuộc sống khó khăn của người dân lúc bấy giờ, và những thứ hàng tương tự làm bằng nhựa hay kim loại đã thật sự thay thế đồ dùng bằng gỗ. Từ vai trò người chủ một xưởng mộc nho nhỏ, ba tôi thất nghiệp rất lâu và mãi sau ba tôi đi làm công nhân ở một xưởng cách nhà hơn 30km.
Mẹ tôi thì ngày càng gầy rộc, khô héo với gánh hàng rong từ 6 giờ sáng đến 7, 8 giờ tối mỗi ngày. Tôi được học đại học từ những đồng tiền còm cõi mặn đắng mồ hôi như thế. Chúng tôi không phải đang sống, mà là vật lộn với cuộc sống.
Nhưng cuộc vật lộn nào cũng khiến người ta mỏi mệt theo thời gian. Lần đó, sau bữa cơm, tôi rụt rè xin 800.000 đồng để đóng học phí. Mẹ tôi kín đáo thở dài. Ba tôi đưa mắt nhìn ra xa một chút rồi vui vẻ bảo: “Khi nào con đi sẽ có, không có gì phải lo”.
Tôi biết nhà mình không có tiền, nhưng vẫn an tâm vì xưa nay ba tôi đã hứa thì không bao giờ sai hẹn. Có thể là ba mượn ở cô Năm, tôi nghĩ vậy nên không suy nghĩ, dằn vặt nhiều nữa. Đúng 3 giờ chiều hôm sau, lúc tôi chuẩn bị trở lại trường thì ba đưa tiền cho tôi: “Ráng học nghe con!”.
Tôi đón lấy món tiền, tiện lời hỏi: “Ở đâu ra vậy ba?”. Ba tôi cười hiền: “Ba bán cây cần câu... Ba không cần nó nữa”. Tôi nhìn lên chỗ ba tôi hay cất cây cần câu, bây giờ chỉ còn lại cái giá đỡ trống không, lạnh tanh. Mặt tôi nóng dần lên. Có cái gì dâng lên chặn ngang cổ họng, tôi không thở được, ngồi phịch xuống giường, òa khóc.
Mẹ tôi đứng gần đấy, im lặng. Mẹ tôi không khóc theo cái cách của tôi. Mẹ chỉ nhìn tôi bằng cặp mắt hờn tủi vì cái nghèo, rồi cúi xuống, hai hàng nước mắt từ từ chảy dài. Rồi mẹ tôi ôm lấy tôi. Ba tôi đang vui vẻ bỗng trở nên mất bình tĩnh, ông vội vã bước ra khỏi nhà. Vừa lúc ấy, bà nội tôi ghé thăm, vô cùng hốt hoảng trước cảnh tượng trước mắt. Tôi mếu máo: “Nội ơi, ba con bán cây cần câu rồi, bán để con đóng học phí”. Mẹ tôi cũng bắt đầu mếu máo. Bà nội cau mày: “Kêu ba con về đây!”.
Tôi quên kể rằng ba tôi rất thích câu cá, và câu rất giỏi. Ngày xưa lúc kiểu cần câu máy còn rất đắt tiền, ba tôi đã có một cây thuộc loại tốt nhất. Đó là kỷ niệm một thời sung túc của gia đình tôi. Tôi còn nhớ rất rõ mỗi lần ba đi câu về, đổ ra không biết bao nhiêu là cá, ếch.
Chúng tôi khoái trá vỗ tay chỉ trỏ con này to, con kia béo mập. Sau bao thăng trầm, những món đồ trong nhà lần lượt ra đi, chỉ có cây cần câu là ở lại. Chúng tôi thừa hiểu ba tôi yêu quí nó như thế nào. Và trong gia đình, những gì ba tôi yêu quí tất nhiên cũng trở thành thiêng liêng với mọi người. Thế mà...
Cuối cùng bà nội tôi bỏ tiền chuộc lại cây cần câu ấy ngay trong buổi chiều để tôi không khóc nữa mà an tâm đi học. Nhưng tôi đã khóc suốt đoạn đường từ Long An trở lên Sài Gòn, khóc vì thương yêu gia đình, vì tủi phận bởi cái nghèo, khóc đơn giản chỉ vì lòng nức nở, không sao kềm lại được.
Ắt hẳn những người ngồi gần tôi trên chuyến xe chín năm trước đã rất lấy làm lạ không hiểu vì sao tôi có nhiều sức lực để khóc lâu thật lâu như vậy. Những giọt nước mắt đó là một phần hành trang vào đời của tôi.
Chiếc cần câu ấy, cho đến nay nó vẫn còn có mặt ở nhà tôi, cùng chứng kiến biết bao buồn vui của gia đình. Tôi không gọi đó là cây cần câu của ba tôi nữa, mà là cây cần câu của gia đình tôi. Tôi yêu quí nó như một thành viên trong gia đình, nó đã giúp tôi cảm nhận một cách rõ rệt nhất tình yêu thương sâu sắc mà ba tôi dành cho con, cảm nhận được sự gắn bó thiêng liêng của những người thân trong cuộc đời mình.
SÂM CẨM TUYẾN
Người phu xe bất đắc dĩ
Chuyện chứng kiến ở bến xe buýt Ngã bảy Lý Thái Tổ
Chiều đông, mưa lất phất, lạnh. Bên đường một thanh niên bự con, vẻ bặm trợn, mặc bồ đồ dính đầy sơn vịn 3 tấm ván ép đón xe. Một chiếc xích lô tắp vô, phu xe là một ông già gầy còm, khắc khổ:
- Cậu về đâu?
Người thanh niên nhìn ông ái ngại:
- Về Bà Chiểu lận, phải qua Cầu Bông, ông làm sao chở nổi tôi với mấy tấm ván!
Ông già vừa ho sù sụ vừa khẩn khoản:
- Được mà cậu, tôi đạp quen rồi. Không nổi lấy gì ăn.
Anh thanh niên cau mày lắc đầu:
- Không nổi đâu, đạp qua cầu có nước đứt bóng, ông kiếm mối khác đi, lựa ai đi mình không mà chở
- Bây giờ người ta đi xe buýt, xe ôm. Khi có hàng như vậy mới kêu xích lô, cậu đi dùm tôi...
Ông già vừa năn nỉ vừa lo lắng ngó ra đường, vài chiếc xích lô đang rà chậm chậm chờ bắt mối. Anh thanh niên cũng ngó theo mấy chiếc xe xích lô khác, gương mặt đăm chiêu.
Bỗng mắt anh sáng lên, tay vỗ bịch bịch vào nệm xe:
- Được rồi, ông xuống xe đi, ngồi lên đây.
Ông già ngơ ngác:
- Ơ, cậu làm gì vậy?
Anh thanh niên cười ha hả:
- Ông ngồi lên vịn mấy tấm ván, để tôi đạp cho lẹ. Với lại tôi mà ngồi để ông chở làm sao coi cho được, tổn thọ lắm. Yên chí đi, trước khi làm thợ mộc tôi đã đạp xích lô mấy năm rồi, còn tiền bạc tôi trả đủ, không thiếu một cắc.
Vậy là ông phu xe ngồi vịn mấy tấm ván ép làm khách, anh thanh niên thót lên yên nhấn bàn đạp rất sành sỏi, giọng oang oang:
- Ông thấy chưa, xe xích lô chuyên nghiệp đây, cứ ngồi đó, đừng lo. À, mà con cháu ông đâu, sao già rồi mà . . .
Chiếc xích lô đi nhanh, giọng anh phu xe bất đắc dĩ nhỏ dần. Những người đứng chờ ở trạm xe buýt bên cạnh chứng kiến cảnh tượng thú vị đó nhìn nhau cười tủm tỉm.
TIẾN BÌNH
Người thầy và những tờ tiền cũ
Cuối cùng nó cũng đậu đại học. Người đầu tiên nó muốn thông báo tin quan trọng ấy không phải là ba hay mẹ nó mà là người thầy kính yêu của nó...
Nhà nó nghèo, lại đông anh em, quê nó cũng nghèo nên từ lâu chẳng có mấy ai dám nghĩ đến chuyện cho con vào đại học. Ba mẹ nó cũng vậy, phần vì quá nghèo, phần là vì nghĩ đến điều kiện của con mình "làm sao mà chọi với người ta"!... Thầy là người duy nhất ủng hộ nó, cho nó niềm tin rằng "mình có thể".
Vui mừng chẳng được bao lâu, bao nhiêu lo lắng tràn về vây lấy nó. Năm năm trời, hàng trăm thứ tiền như bầy ong vo ve trong đầu nó.
Rồi thầy đến mang cho nó một lô sách, vở mà nó đoán là những bài học "nhân-lễ-nghĩa" của thầy, dúi vào tay nó một gói nhỏ mà thầy bảo là "bí kíp" rồi dặn chỉ lúc nào khó khăn nhất mới được mở ra. Nó đã không "cảnh giác" thừa. Gói "bí kíp" mà lúc nhận từ tay thầy nó đã ngờ ngợ là một xấp những tờ tiền 10.000đ bọc trong hai lớp nilon cũ kỹ, những tờ tiền được vuốt phẳng phiu phần nhiều đã nhàu nát mà nó tin rằng thầy đã để dành từ lâu lắm! 900.000đồng, nó cứ mân mê những đồng 10.000 đã cũ mà thèm một góc không có ai để khóc.
Đã hai năm kể từ cái ngày thầy lặn lội lên Sài Gòn thăm nó, dúi vào tay nó những đồng 10.000 nhọc nhằn rồi lại vội vã trở về. Sau đó thầy chuyển công tác. Hai năm, thỉnh thoảng nó vẫn nhận được những đồng 10.000 của thầy (lạ thay, lại vào những lúc tưởng chừng như nó bế tắc nhất!)... Hai năm, nó vẫn chưa một lần về thăm thầy. Trưa, mới đi học về, mẹ điện lên báo: "Thầy H. mất rồi!". Nó chỉ lắp bắp hỏi được ba chữ: "Sao thầy mất?", rồi sụp xuống khi mẹ cũng nghèn nghẹn ở đầu dây bên kia: "Thầy bệnh lâu rồi mà không ai biết. Ngày đưa thầy vào viện, bác sĩ chụp hình mới biết thầy đã hư hết lục phủ ngũ tạng rồi, chưa ai kịp đi thăm thì thầy đã...".
Nó bỏ hết mọi sự leo lên xe đò. Trong cái nóng ban trưa hầm hập với cơn say xe mệt mỏi, nó thấy thầy hiền hậu đến bên nó, dúi vào đôi tay nóng hổi của nó những tờ 10.000 đồng lấp lánh... Đến bây giờ nó mới để ý thấy thầy đã xanh xao lắm, bàn tay tài hoa khéo léo ngày xưa đã gân guốc lên nhiều lắm... Nó chợt tỉnh, nước mắt lại lăn dài trên má, trái tim nó gào lên nức nở: "Thầy ơi... sao không đợi con về...!?". Vì nó cứ đinh ninh: nếu đổi những đồng 10.000 kia thành thuốc, thầy sẽ sống cho đến khi nó kịp trở về...
Sài Gòn tháng 10 năm 2005
TRÚC NGUYỄN
Sửa lỗi
Chuyện kể rằng: Có một người mù đi trong đêm tối, tay xách chiếc đèn, đầu đội cái bình sành.
Một người đi đường trông thấy cho là anh mù này ngốc nghếch, liền cười nhạo:
- Này anh ngốc kia, đối với anh thì ban ngày cũng như ban đêm. Vậy anh cầm đèn để làm gì?
Người mù ôn tồn đáp:
- Đèn này không phải cần cho tôi, nhưng lại cần thiết đối với anh, để trong đêm tối anh không đụng vào tôi và làm vỡ cái bình sành của tôi.
Tài năng của...Heo
Cách đây lâu lắm rồi, con người mang rất nhiều động vật về thuần hóa. Vì không hiểu những con vật này sở trường về việc gì nên quyết định làm trắc nghiệm, sau đó căn cứ vào năng lực của chúng để sắp xếp công việc.
Cuộc trắc nghiệm đầu tiên là thi chạy. Ngựa và Heo cùng phấn đấu chạy lên trước. Ngựa chạy thẳng còn Heo thì vòng qua vách núi tới khu rừng ngủ một giấc, khi nó nghe tiếng bước chân Ngựa quay về mới từ trong rừng chạy ra, cùng Ngựa chạy về đích. Con người nghĩ rằng Heo và Ngựa đều chạy nhanh như nhau.
Cuộc thi thứ hai là cày ruộng, Heo cũng tham gia. Trâu chuyên tâm cày, còn Heo thì ngồi trên đất đánh côn, toàn thân dính đầy bùn, nói với Trâu: “Cố lên, đừng phụ lòng chủ nhà đã chăm sóc chúng ta”. Con người nghe Heo nói, nghĩ rằng Heo rất tài năng, lại rất thành thực.
Cuộc thi thứ ba là thi hát, Gà trống ngẩng cao đầu, tiếng gáy vượt ngàn mây. Heo thấy Gà trống mở miệng cũng mở miệng theo. Gà trống khép miệng, nó cũng khép miệng. Cố nhiên, trong lúc hỗn lộn, người ta cho rằng Heo hát rất hay.
Thông qua thi cử và ăn nói, con người cho rằng Heo là một con vật toàn năng nên rất xem trọng và yêu quý nó. Nhưng bắt tay vào việc người ta để nó cày ruộng thì nó chạy loạn cả lên; để nó báo thức, nó lại lười biếng ngủ gục; cưỡi nó đi chợ, nó hất con người ngã xuống đất. Bây giờ thì con người mới biết Heo chỉ có thể nuôi để ăn mà thôi.
Các bạn thân mến, lười biếng lường gạt, sớm muộn gì cũng bị phát hiện. Chỉ có sự thành thực, làm đúng với bổn phận của mình, mới được người khác trọng dụng.
Những cái cây bị đổ
Một bài báo về khoa học đã từng viết lại chuyện lạ này: "Trên quần đảo Solomon ở phía Nam Thái Bình Dương, người ta có 1 cách chặt cây rất lạ. Nếu 1 cái cây quá lớn và người ta không thể dùng rìu để đốn được, thì những người dân ở đây sẽ "bắt" nó phải đổ bằng cách hét lên với nó. Những người đốn cây khỏe nhất vùng được coi là có "năng lực đặc biệt" sẽ lặng lẽ tụ tập xung quanh cái cây ngay từ lúc bình minh, hướng mặt vào nó rồi đột ngột đồng thanh hét lên to hết sức mình. Họ liên tiếp làm thế trong vòng 30 ngày. Cái cây sẽ chết và đổ xuống. Theo những người dân bản địa, họ đã dùng cách này từ rất lâu và không hề thất bại".
Bạn nghĩ sao? Những người dân đó thật lạc hậu và ngây thơ. Hét lên với cái cây? Chắc bạn chưa từng nghe tới một cách đốn cây lại "nguyên thủy" như vậy? Thật tệ là họ chẳng có một công cụ hiện đại nào, cũng chẳng có tư duy khoa học gì cả!
Còn bạn? Bạn la lối người bạn của bạn. Bạn quát cả cái đồng hồ báo thức vào buổi sáng và cái máy hút bụi đột nhiên bị hỏng. Bạn quát đứa trẻ nhà bên cạnh. Bạn cũng từng đấm xuống bàn làm việc và đấm vào cửa.
Anh hàng xóm của bạn cũng thường quát cái xe khó khởi động. Khi đi xem bóng đá, anh ta cũng hay quát trọng tài. Anh ta quát cả cái máy rút tiền tự động.
Không biết việc la lối lên như thế thì có ích gì, vì những cái máy và mọi thứ vẫn cứ y như vậy, không động tĩnh. Đá vào cái xe thì nó cũng vẫn không khởi động được. Và bạn có biết những người dân đảo Solomon đưa ra lý thuyết gì không? Những cái cây là sinh vật sống. Việc họ quát tháo những cái cây làm chết linh hồn của chúng, và chúng đổ xuống.
Những viên đá cứng có thể làm bạn gãy xương, nhưng những lời nói lại có thể làm trái tim bạn tan vỡ....
Ước vọng và hạt giống
Ngày xưa có hai đứa trẻ đều có nhiều ước vọng rất đẹp đẽ.
"Làm sao có thể thực hiện được ước vọng"
Tranh luận hoài 2 đứa trẻ mang theo câu hỏi đến cụ già, mong tìm những lời chỉ bảo.
Cụ già cho mỗi đứa trẻ một hạt giống, và bảo:
- Đây là hạt giống rất quý, ai có thể chăm sóc nó tốt thì người đó có thể tìm ra con đường thực hiện ước vọng!
Nói xong cụ già quay lại rồi đi khuất ngay.
Sau đó mấy năm, cụ già hỏi hai đứa trẻ về tình trạng chăm sóc hạt giống.
Đứa trẻ thứ nhất mang ra 1 chiếc hộp được quấn bằng dây lụa nói :
- Cháu đặt hạt giống trong chiếc hộp , suốt ngày giữ nó.
Nói rổi nó lấy hạt giống ra cho cụ già xem, thấy rõ hạt giống nguyên vẹn như trước.
Đứa trẻ thứ hai mặt mũi xám nắng, hai bàn tay nổi chai. Nó chỉ ra cánh đồng mênh mông lúa vàng phấn khởi nói:
- Cháu đem hạt giống xuống đất mỗi ngày lo tưới nước chăm sóc bón phân diệt cỏ . . . tới nay nó đã kết hạt mới đầy đồng.
Cụ già nghe xong mừng rỡ nói :
-Các cháu, ước vọng cũng như hạt giống đó. Chỉ biết khư khư giữ lấy nó thì chẳng có thể lớn lên được. Chỉ khi dùng mồ hôi, sức lực, tưới tắm vun trồng cho nó thì mới có thể biến thành hoa trái, mùa màng bội thu thôi!
Hai mươi Đô La
Một nhà diễn thuyết nổi tiếng đã bắt đầu buổi nói chuyện của mình bằng cách đưa ra tờ giấy bạc trị giá 20 đô la. Trong gian phòng có 200 khán giả, anh ta cất tiếng hỏi: "Ai muốn có tờ 20 đô la này?".
Những bàn tay bắt đầu giơ lên. Anh ta nói tiếp: "Tôi sẽ đưa tờ 20 đô la cho bạn - nhưng điều đầu tiên, hãy để tôi làm việc này!"
Anh ta vò nhàu tờ 20 đô la. Sau đó, anh ta lại hỏi: ""Còn ai muốn tờ bạc này không?". Vẫn có những bàn tay đưa lên.
"Ồ, vâng, nó sẽ như thế nào nếu tôi làm thế này?" - nói rồi anh ta quẳng nó xuống sàn và giẫm giày lên. Sau đó, anh ta nhặt tờ bạc lên, bây giờ trông nó đã nhàu nát và dơ bẩn. "Nào, ai còn muốn có tờ bạc này nữa?". Vẫn còn những bàn tay đưa lên
"Những người bạn của tôi, tất cả các bạn phải học một bài học rất giá trị. Không có nghĩa gì đối với những việc tôi làm với đồng tiền, bạn vẫn muốn có nó bởi vì nó không giảm giá trị. Nó vẫn có giá trị là 20 đô la. Nhiều lần trong cuộc sống của chúng ta, bạn bị rơi ngã, bị "vò nhàu" và bị vẩn đục bởi những quyết định mà chúng ta làm và những hoàn cảnh đến với chúng ta. Chúng ta cảm thấy hình như chúng ta trở nên vô giá trị; nhưng không có nghĩa lý gì những gì đã xảy ra, bạn sẽ không bao giờ mất đi giá trị của mình. Dù thế nào đi nữa, bạn cũng là vô giá với những người yêu thương bạn. Giá trị của cuộc sống chúng ta được quyết định không phải do những gì chúng ta làm hoặc người mà chúng ta quen biết, mà bởi . . . chúng ta là ai.
Bạn thật đặc biệt - đừng bao giờ quên điều đó!"
Chiếc lá hoàn mỹ
Ngày xưa, có một vị đại sư muốn chọn một đệ tử làm người nối dõi. Một hôm, ông bảo hai đệ tử rằng: “Các con hãy ra ngoài và chọn về đây cho ta 1 chiếc lá đẹp nhất, hoàn mỹ nhất.”
Hai đệ tử vâng lời thầy đi tìm lá. Thoáng chốc, một người quay về và trình cho đại sư một chiếc lá không được đẹp lắm: “Thưa thầy, tuy chiếc lá này không phải là hoàn mỹ nhất nhưng nó là chiếc lá hoàn mỹ nhất mà con thấy”.
Người kia đi cả ngày trời và quay về với 2 bàn tay trắng, người đó nói với vị đại sư: “Thưa thầy, con đã tìm và thấy rất nhiều lá đẹp, nhưng con không thể nào chọn được chiếc lá hoàn mỹ nhất.” Cuối cùng, vị đại sư đã chọn người có lá đem về.
“Tìm một chiếc lá hoàn mỹ nhất”, chúng ta vẫn cứ luôn nghĩ đến việc “hoàn mỹ nhất” nhưng nếu bạn cứ một mực đi tìm mà không nhìn vào thực tế, không so sánh với thực tế thì bạn cứ phải vất vả để rồi… trắng tay. Cho đến một ngày nào đó, bạn mới phát hiện rằng: Chỉ vì mãi đi tìm một chiếc lá hoàn mỹ nhất mà bạn đã bỏ qua biết bao cơ hội lớn một cách đáng tiếc!
Hơn nữa, thứ hoàn mỹ nhất của con người cuối cùng có được bao nhiêu? Trên đời này đã xảy ra không ít chuyện đáng tiếc, đó cũng do một số người xa rời thực tế đi tìm “chiếc lá hoàn mỹ nhất”, coi thường cuộc sống đạm bạc. Nhưng chính trong cuộc sống đạm bạc, vô vị đó mới chất chứa những điều kỳ diệu và to lớn. Điều quan trọng là thái độ của bạn như thế nào khi đối diện với nó.
Trong cuộc sống chúng ta, không nhất thiết cứ phải theo đuổi những thứ hoàn mỹ mà chỉ cần bình tâm lại, từng bước từng bước tìm chiếc là mà bạn cho rằng là hoàn mỹ nhất.
Nhân vô thập toàn
Theo một truyện cổ , Nasruddin là hiện thân của những người độc thân khó tính. Trong một buổi trà dư tửu hậu, khi được hỏi lý do vì sao ông không lập gia đình, Nasruddin giải thích như sau " Suốt thời thanh niên, tôi đã dành trọn thời gian để tìm kiếm người đàn bà hoàn hảo. Tại Cairo, thủ đô của Ai Cập , tôi đã gặp người đàn bà vừa đẹp, vừa thông minh , với đôi mắt đen ngời như hạt ô-liu, nhưng người đàn bà này lại không dịu dàng chút nào. Tôi đành bỏ Cairo để đi Baghdad , thủ đô Iraq, tôi tìm thấy người phụ nữ vừa đẹp, vừa thông minh, vừa dịu dàng, độ lượng song nàng và tôi không bao giờ đồng quan điểm về bất cứ chuyện gì. Hết người này đến người khác, người được điều này lại thiếu điều kia. Tôi đã từng tưởng mình sẽ không bao giờ tìm được người phụ nữ lý tưởng cho cuộc đời mình. Thế rồi, một hôm, tôi gặp được nàng, người phụ nữ cuối cùng trong cuộc tìm kiếm của tôi. Nàng kết hợp tất cả những đức tính mà tôi hằng mong muốn. Nàng đúng là người hoàn hảo, nhưng cuối cùng tôi đành phải sống độc thân suốt đời vì người phụ nữ ấy cũng đang đi tìm một người đàn ông lý tưởng mà dưới mắt nàng, tôi là người đàn ông còn quá nhiều thiếu sót "
Người đàn ông độc thân trong câu chuyên trên đây đã quên một trong những quy luật cơ bản của cuộc sống là luật thích nghi . Thay vì bắt người khác và cuộc sống phải thích nghi với chúng ta, chính chúng ta phải tìm cách thích nghi với cuộc sống và người khác .
Tâm lý thông thường của con người là đòi hỏi người khác hơn là đòi hỏi chính bản thân mình . Chúng ta đòi hỏi người khác phải thế này , thế kia nhưng chính chúng ta quên rằng chúng ta chưa làm được những điều mà người khác trông chờ nơi chúng ta.
Socrates và chuyện ngồi lê đôi mách
Socrates là một nhà triết học Hy Lạp cổ đại (trước Công Nguyên). Ngày kia, có nguời hàng xóm đến gặp Socrates.
"Này ông Socrates ơi, ông có nghe chuyện này chưa?"
"Khoan đã!" -Socrates ngắt lời người hàng xóm- "Anh có chắc rằng tất cả những gì anh sắp kể cho tôi đều đúng sự thật không?"
"Ồ... cũng không chắc nữa. Tôi chỉ nghe người ta kể lại thôi."
"Thế à, Vậy chúng ta không cần quan tâm đến nó trừ phi nó là một chuyện tốt. Đó có phải là một chuyện tốt không?"- Socrates hỏi.
"À không, không tốt. Đây là một chuyện xấu."
"Chà, anh có nghĩ tôi cần phải biết chuyện ấy để giúp ngăn ngừa những điều không hay cho người khác không?"
"Ờ, ờ... quả thực cũng không cần lắm,"- Người hàng xóm trả lời.
"Tốt lắm,"- Socrates kết luận - "Vậy thì chúng ta hãy quên nó đi, bạn nhé. Còn có vô số chuyện đáng giá hơn trong đời sống. Chúng ta không thể mất công bận tâm tới những chuyện tầm phào, những chuyện vừa không đúng, vừa không tốt, vừa không cần thiết cho ai."
Những hòn sỏi
Có ba chàng kỵ mã đi qua sa mạc. Một hôm, trời vừa sập tối, ba chàng cũng vừa đến một bờ sông khô cạn. Bỗng chốc trong đêm tối có một tiếng nói bí mật vang lên: "Hãy dừng bước lại". Cả ba đều tuân lệnh. Tiếng nói bí mật ấy tiếp: "Các người hãy xuống ngựa, bước xuống lòng sông, nhặt lấy mỗi người một nắm sỏi bỏ vào túi rồi hãy đi". Cả ba cùng làm theo lời dạy. Tiếng nói lại tiếp: "Hay lắm, các người đã làm theo lời ta. Ngày mai các người vừa vui sướng mà cũng sẽ vừa buồn bã". Ba chàng kỵ mã ngơ ngác nhìn nhau và lên ngựa rong ruổi.
Khi mặt trời vừa ló dạng, ba chàng móc túi ra thì những hòn sỏi đã biến thành những viên kim cương ngời sáng. Và đúng như tiếng nói bí mật đã mách bảo, cả ba đều vừa sung sướng vừa buồn rầu. Họ sung sướng vì đã nhặt được châu báu, họ buồn rầu vì đã trót không nhặt nhiều hơn.
Những hòn sỏi tựa như những kiến thức mà chúng ta đang thu nhặt trong cuộc sống. Hôm nay chúng ta muốn thu bao nhiêu cũng được, khi chúng ta còn trẻ. Nhưng sau này những kiến thức ấy sẽ có giá trị vô song, trở thành những hạt kim cương trong đời sống của mỗi chúng ta. Vì thế hãy dùng thì giờ quý báu của tuổi trẻ để học hỏi, để sau này chúng ta không phải nuối tiếc như ba chàng kỵ mã nói trên.
Những bài học làm người tốt!
Học cách quan tâm đến mỗi người bên mình
Chuyện kể rằng, trong một trường học danh tiếng dành cho các nữ sinh đáng yêu, các cô gái đều thoải mái trả lời cảc câu hỏi trong một kỳ thi trắc nghiệm. Chỉ tới câu hỏi cuối cùng: hãy cho biết tên người lao công trong trường chúng ta? thì các cô gái lặng thinh. Ai cũng nhớ trong trường có một bác lao công nữ, ai cũng miêu tả được vóc người, hình dáng của bác ấy nhưng không ai gọi tên bác ấy bao giờ. Thầy giáo đã nói rằng: trong cuộc sống, rồi các em sẽ gặp rất nhiều người nữa, mỗi người đều rất quan trọng đối với em, rất đáng cho các em quan tâm. Chỉ cần một nụ cười mỉm hoặc một câu chào, vậy là các em đã có thể quan tâm tới tất cả những người đáng mến.
Tùy thời tùy nơi giúp đỡ người khác
Trời mưa tầm tã, một người phụ nữ lớn tuổi ướt đầm nước, đứng bên đường cao tốc, mong gặp ai đó tốt bụng cho đi nhờ. Bao nhiêu xe chạy qua chạy lại, chẳng xe nào đỗ lại. Họ sợ lỡ việc của mình, hoặc họ sợ vướng vào một trò lừa đảo. Đang lúc người phụ nữ thất vọng thì một chiếc xe dừng lại. Một cô gái bước xuống giúp đưa bà tới trạm sửa chữa khẩn cấp xe, rồi ân cần đưa bà cùng xe trục quay lại chỗ xe hỏng. Trước khi chia tay, bà một mực hỏi địa chỉ của cô. Một tuần sau, cô gái kinh ngạc nhận được một chiếc ti vi màu cao cấp, trên mặt thùng đựng có dán một tấm card - visite sang trọng, nội dung là cảm ơn sự giúp đỡ của cô hôm mưa gió, nhờ đó, bà đã kịp gặp mặt lần cuối người chồng xa cách lâu ngày.
Miếng mồi nguy hiểm
Chương trình thế giới loài vật của National Geographic có chiếu một đoạn phim ngắn về cách những con chim đại bàng săn bắt cá ở những ao hồ. Tuy bay rất cao trên trời, nhưng với đôi mắt rất sắc chúng có thể thâý những con cá đang bơi ở phía dưới. Và khi đã "chấm" một con mồi, chúng liền xếp cánh lại và chúi thẳng xuống mặt nước với tốc độ hon 70km/giờ. Khi tới mặt hồ, chúng giương xoè móng vuốt ra chộp lấy con mồi và bay vào bờ.
Trong chương trình đặc biệt của buổi tối hôm đó đã chiếu một cảnh rất khác thường. Một con đại bàng chúi xuống và chộp được một con cá bằng móng vuốt của nó. Thế nhưng con cá lại rất to, có lẽ ngoài dự tính của con đại bàng. Khi nó bắt đầu bay vào bờ, bạn có thể thấy rõ sự căng thẳng trên vẻ mặt của nó. Nó biết sẽ không đủ sức để vừa bay vừa quắp con cá đó vào bờ, thế là nó quyết định thả con mồi xuống. Thế nhưng những móng vuốt của nó đã bấu quá chặt vào con mồi nên giờ đây không thể thả ra. Nó vùng vẫy nhưng vô vọng. Con đại bàng từ từ chìm xuống nước và chết vì . . . không thể thoát khỏi con mồi của nó!
Nhiều lúc trong cuộc sống chúng ta cũng gặp phải những "miếng mồi" nguy hiểm như vậy. Chúng ta có cảm giác bất kỳ lúc nào mình đều có thể thả nó ra, nhưng chính lúc đó lại hiểu rằng giờ đây không phải là chúng ta chộp lấy nó mà chính nó đang chộp lấy mình. Hãy cảnh giác với những "miếng mồi nguy hiểm" đó. Nhiều người nghĩ rằng bất kỳ lúc nào mình thích, mình đều có thể bỏ. Thế nhưng hậu quả thường rất đáng tiếc. Họ đã bị chính những thứ đó bám chặt lấy và giết chết cuộc đời của họ.
Bạn có nghĩ “ Tiền bạc” là một trong những món mồi nguy hiểm trên đời này không?
Con bướm
Một người nọ tìm thấy một cái kén của con bướm . Anh ta nhận thấy cái kén này bắt đầu được cắn rách, sâu bướm bắt đầu bò ra. Quan sát một hồi lâu, anh thấy con sâu bướm cố hết sức lách thân mình qua lỗ hổng mà không được. Rồi con sâu có vẻ ráng hết sức mà không lọt ra nổi và nằm im như chịu thua. Động lòng thương, người nọ muốn giúp con sâu bướm, anh ta lấy mũi kéo nhỏ cắt vết rách của cái kén để sâu bướm ta vuợt ra ngoài dễ dàng. Sau khi sâu bướm ra khỏi kén, thì thân hình lớn ra nhưng đôi cánh thì lại nhỏ. Người nọ cố chờ xem con bướm có thể phát triển thêm ra không? mong rằng đôi cánh kia có thể nở rộng thêm để đủ sức bay đi.
Than ôi! vô ích! con bướm đã bị trọn đời tàn tật, lê lết với chiếc cánh nhỏ bé không thể bay đi được.
Người nọ vì lòng thương mà hấp tấp làm hỏng cuộc đời con bướm. Anh không biết là luật tạo hóa bắt buộc con sâu bướm phải tự phấn đấu để vượt ra khỏi lỗ nhỏ của cái kén. Trong lúc phấn đấu đó, huyết mạch sẽ được luân lưu từ thân mình cho đến đôi cánh và sau khi vượt ra khỏi chiếc kén, bướm ta mới có đủ sức vuơn đôi cánh lớn ra mà bay bổng.
Sức phấn đấu cũng rất cần thiết cho đời sống chúng ta vậy.
Nếu cuộc đời không có những trở ngại thì chúng ta sẽ bị bại liệt như con bướm kiạ Chúng ta không có đủ sức để bay bổng. Trước những thăng trầm thế sự, chúng ta phải có đủ trí phấn đấu ngõ hầu vươn lên trong cuộc sống.
Chúng ta sẽ có sức dũng mãnh, vì cuộc đời có những trở ngại khiến chúng ta phải đấu tranh.
Chúng ta sẽ có trí tuệ, vì cuộc đời có những vấn đề nan giải khiến chúng ta phải giải quyết.
Chúng ta sẽ có can đảm, vì cuộc đời có những chông gai nguy hiểm khiến chúng ta phải vượt qua.
Chúng ta sẽ có lòng từ bi, vì cuộc đời có những kẻ bất hạnh để cho chúng ta giúp đỡ.
Chúng ta sẽ có thịnh vượng, vì cuộc đời tạo ra những trí óc và bắp thịt khiến chúng ta phải vận dụng.
Các bạn có thấy đúng không ?
Cà Rốt, Trứng và Cà Phê ???
Một người phụ nữ trẻ đi về nhà mẹ, than vãn với mẹ về những khó khăn trong cuộc sống hiện tại của mình. Cô không biết sẽ phải làm gì và muốn từ bỏ tất cả. Cô cảm thấy mệt lả vì phải đối phó với mọi thứ, cứ việc này vừa giải quyết xong thì lại có việc khác phát sinh ngay lập tức. Mẹ của cô bèn dẫn cô vào bếp. Bà đổ đầy nước vào 3 cái ấm. Rồi bà cho cà rốt vào cái ấm thứ nhất, trứng vào ấm thứ hai, và hạt cà phê vào ấm cuối cùng. Sau đó bà bắc 3 ấm lên bếp đun sôi mà không nói lời nào. Khoảng 20 phút sau, bà tắt bếp và lần lượt múc từng loại ra tô. Quay lại con gái, bà hỏi: "Hãy nói cho mẹ nghe con đã thấy những gì?"
"Cà rốt, trứng và cà phê". Cô trả lời.
Bà bảo cô hãy tiếp xúc gần hơn và cho biết cảm giác. Cô làm theo và thấy cà rốt rất mềm. Cô lấy một quả trứng, đập và bóc vỏ, sau lớp vỏ cứng, trứng đã đông đặc lại. Cuối cùng cô nhấp một ít cà phê, mùi vị của nó thật thơm ngon dễ chịu.
Cô hỏi mẹ: "Vấn đề là như thế nào vậy mẹ?".
Mẹ cô mới từ tốn giải thích rằng, mọi vật đều phải đối mặt với những tai hoạ - chẳng hạn như nước sôi - nhưng mọi vật đều có những cách phản ứng hoàn toàn khác nhau.
Cà rốt từ dạng cứng nhưng sau khi luộc trong nước sôi thì nó mềm nhun và trở nên yếu đuối.
Trong khi trứng rất mỏng manh dễ vỡ nhờ vào vỏ bọc ngoài để bảo vệ lớp chất lỏng bên trong. Nhưng sau khi luộc trong nước, lớp chất lỏng bên trong đông đặc và cứng lại.
Chỉ có cà phê là đặc biệt, chúng đã làm thay đổi mùi vị của nước. "Vậy con sẽ là loại nào?" - bà hỏi con gái - "Khi con gặp những điều không may, con sẽ phản ứng như thế nào? Con sẽ là cà rốt, trứng hay cà phê?"
Hãy nghĩ về điều này : Bạn sẽ là loại nào khi gặp những tai hoạ, bất mãn trong cuộc sống?
Liệu bạn có giống như cà rốt cứng rắn nhưng khi gặp nỗi đau và tai hoạ thì trở nên mềm yếu, đánh mất sức mạnh của mình?
Liệu bạn có giống như quả trứng có một trái tim yếu mềm, một tâm hồn nhạy cảm, mong manh nhưng khi chịu nhiệt, chịu thử thách thì trở nên khô khan, cứng nhắc dù vỏ bọc ngoài không thay đổi? Hay bạn giống những hạt cà phê đã làm thay đổi mùi vị của nước nóng, thay đổi hoàn cảnh đã đem lại đau thương cho mình, làm toát ra một mùi vị thơm nồng nàn. Nếu bạn giống như những hạt cà phê thì dù trong những hoàn cảnh xấu nhất bạn vẫn cảm thấy dễ chịu.
Vậy bạn là cà rốt, trứng hay hạt cà phê ???
Điều đáng nói là phải can đảm đối mặt và hoà nhập với thực tế, dù nó không theo ý muốn của mình.
(Ghi chú: khi đọc bài này, ta có thể đoan chắc những thuyền nhân VN từng ở trong những trại tỵ nạn là những người can đảm đối mặt và hòa nhập với thực tế)
Câu thần chú
Có một nhà thông thái, lúc biết mình sắp ra đi theo tổ tiên, liền gọi các con lại bên giường, chỉ vào kho sách mênh mông của mình và nói:
-Bây giờ cha tiết lộ cho các con một điều bí mật: kho sách vĩ đại của ta chính là một món quà do một vị Thần đã ban tặng, khi Ngài thấy ta nhà nghèo mà học hành chăm chỉ. Cùng với món quà tặng vô giá đó, Ngài còn bảo: "Trong kho sách vô tận có một quyển sách quý nhất, trong quyển sách quý nhất ấy có một trang quý nhất, trong trang sách quý nhất ấy có ghi một câu thần chú. Ai đọc được câu thần chú ấy sẽ trở thành một nhà thông thái trong những nhà thông thái...
- Cuốn sách nào vậy cha? người con trai cả nhanh nhẩu hỏi.
- Chính ta cũng muốn hỏi vị Thánh câu đó, nhưng chưa kịp thì Ngài đã biến mất.
Ngừng lại giây lát rồi người cha trút cạn sinh lực vào lời trăn trối cuối cùng:
- Cả đời ta đã cặm cụi đọc, nhưng vẫn chưa đọc được cuốn sách quý báu ấy. Đời các con còn dài, các con hãy chăm chú vào việc đọc. Ta hy vọng rằng các con sẽ may mắn hơn ta là tìm được câu thần chú linh thiêng ấy!
Nghe lời căn dặn, những người con của nhà thông thái cần mẫn đọc hết ngày này qua ngày khác. Họ đọc mãi, nhưng vì kho sách dường như là vô tận nên vẫn chưa đọc đến cuốn sách quý báu ấy. Song nhờ những kiến thức thâu lượm được qua ngày tháng, họ đã trở thành những bậc trí giả khả kính.
Thường thôi
Ngày xưa ở triều đại Trung Quốc có một viên tướng rất nỗi tiếng về môn bắn cung (hình như là Dưỡng Do Cơ). Bất cứ ai sống trong triều đại đó cũng đều không thể không biết tới tên tuổi của ông ta. Không có một vật gì mà ông ta lại bắn không trúng, thậm chí kể cả một sợi dây thừng dùng để cột cánh buồm cũng đều bị ông ta hạ một cách dễ dàng cho dù rằng ở một vị trí rất xa với sợi dây.
Một hôm trong lúc ông ta đang luyện tập bắn cung, tình cờ có một người bán rượu đi ngang qua. Ông bán rượu này tỏ ra vẻ rất thờ ơ với những bài luyện tập của viên tướng, thấy vậy viên tướng liền biểu diễn ngay một màn bắn cung xuất chúng của ông bằng cách bắn đứt một sợi dây thừng ở cách ông ta rất xa, sau khi bắn xong viên tướng liền quay sang người bán rượu và hỏi:
- Sao, ông thấy tôi thế nào?
Người bán rượu liền trả lời một cách không ngần ngại:
- Thường thôi!....
Nghe người bán rượu trả lời như vậy, viên tướng hết sức tức giận liền hỏi lại:
- Vậy theo ông thấy thì trên đất nước Trung Hoa này có được bao nhiêu người bắn cung giỏi giống được như tôi, vậy mà tại sao ông lại cho là “thường thôi”?
Người bán rượu đáp:
- Nếu như ông cho ông giỏi, vậy tôi hỏi ông – nói tới đây người bán rượu móc từ trong người ông ta ra một tiền đồng và đặt nó lên một cái miệng chai rỗng, sau đó ông ta tiếp - ông có thấy được cái lỗ nhỏ xíu ở chính giữa cái đồng tiền này không? (tiền đồng của Trung Quốc thời xưa có một cái lỗ nhỏ ở chính giữa đồng tiền như chúng ta thường hay thấy ở trên hình của các vị thần tài). – vừa nói, tay ông ta chỉ vào cái lỗ nhỏ xíu nằm ở chính giữa cái tiền đồng mà ông ta vừa đặt nó lên trên cái miệng chai hồi nảy.
- Có ! – viên tướng đáp.
- Vậy ông có thể nào dùng một cái chai có chứa sẳn rượu trong đó và rót rượu đó vào trong cái chai rỗng này qua cái lỗ nhỏ xíu này của tiền đồng mà không làm cho tiền đồng này ướt được không? - người bán rượu hỏi, tay vừa chỉ vào cái lỗ nhỏ của tiền đồng nằm trên miệng của một cái chai rỗng.
Viên tướng vội đáp mà không cần suy nghĩ:
- Việc đó thì có gì đâu mà khó.
Nói tới đây viên tướng liền thực hiện theo những gì mà người bán rượu vừa thách thức. Nhưng quả thật rằng ông ta không thể nào mà không làm ướt được tiền đồng khi ông ta đổ rượu vào trong cái chai.
Người bán rượu lấy từ trong người ra một đồng tiền khác và đặt nó lên miệng của cái chai rỗng hồi nãy và từng bước thực hiện lại những gì mà ông ta vừa mới thách thức với viên tướng. Không có một chút xíu rượu nào dính vào tiền đồng cả…!
Sau khi bỏ chai rượu xuống, người bán rượu giải thích:
- Ông là một viên tướng, việc ngày đêm ông chú trọng vào công việc luyện tập binh khí và sử dụng thành thạo chúng thì đó cũng chỉ là chuyện đương nhiên thôi. Còn tôi là một người bán rượu, ngày đêm tôi phải bôn ba với công việc bán rượu cho nên việc tôi rót rượu thành thạo cũng chỉ là chuyện thường, vì thế nên không có gì đáng để tự hào cả!...
Đại bàng và Gà
Ngày xưa, có một ngọn núi lớn, bên sườn núi có một tổ chim đại bàng. Trong tổ có bốn quả trứng lớn. Một trận động đất xảy ra làm rung chuyển ngọn núi, một quả trứng đại bàng lăn xuống và rơi vào một trại gà dưới chân núi. Một con gà mái tình nguyện ấp quả trứng lớn ấy.
Một ngày kia, trứng nở ra một chú đại bàng con xinh đẹp, nhưng buồn thay chú chim nhỏ được nuôi lớn như một con gà. Chẳng bao lâu sau, đại bàng cũng tin nó chỉ là một con gà không hơn không kém. Đại bàng yêu gia đình và ngôi nhà đang sống, nhưng tâm hồn nó vẫn khao khát một điều gì đó cao xa hơn. Cho đến một ngày, trong khi đang chơi đùa trong sân, đại bàng nhìn lên trời và thấy những chú chim đại bàng đang sải cánh bay cao giữa bầu trời.
"Ồ- đại bàng kêu lên- Ước gì tôi có thể bay như những con chim đó".
Bầy gà cười ầm lên:" Anh không thể bay với những con chim đó được. Anh là một con gà và gà không biết bay cao".
Đại bàng tiếp tục ngước nhìn gia đình thật sự của nó, mơ ước có thể bay cao cùng họ. Mỗi lần đại bàng nói ra mơ ước của mình, bầy gà lại bảo nó điều không thể xảy ra. Đó là điều đại bàng cuối cùng đã tin là thật. Rồi đại bàng không mơ ước nữa và tiếp tục sống như một con gà. Cuối cùng, sau một thời gian dài sống làm gà, đại bàng chết.
Trong cuộc sống cũng vậy: Nếu bạn tin rằng bạn là một người tầm thường, bạn sẽ sống một cuộc sống tầm thường vô vị, đúng như những gì mình đã tin. Còn như bạn đã từng mơ ước trở thành đại bàng, bạn hãycố gắng đeo đuổi ước mơ đó . . . và đừng sống như một con gà!
Đánh nhau bằng gậy
Trong một tiết học của các sinh viên trường mỹ thuật, vị giáo sư đưa cả lớp xem bức tranh mô tả thân phận con người của Goya, họa sĩ nổi tiếng người Tây Ban Nha. Bức tranh mang tên Đánh nhau bằng gậy.
Trong bức tranh, Goya vẽ hai người nông dân đang xô xát nhau. Mỗi người cầm trên tay một chiếc dùi cui sần sùi. Một người đang giơ dùi cui để bảo vệ mặt mình. Nền trời trong xanh không để lộ một nét gì sắp xảy đến. Người ta không đoán được trời sắp dông bão hay sáng rực nữa.
Cả lớp nhốn nháo. Ai nấy đều lao nhao muốn phát biểu trước. Có sinh viên nói đây là bức tranh diễn tả định luật bảo tồn của con người: “Đấu tranh bảo tồn sinh mạng”. Sinh viên khác: bức tranh diễn tả mục đích của con người là muốn hạnh phúc vì hạnh phúc là đấu tranh. Sinh viên khác nữa lại phân tích: bức tranh muốn diễn tả chân lý con người là động vật có lý trí, vì chỉ có thú vật mới cắn nhau mà ở đây là thú vật có lý trí nên cắn nhau bằng gậy.
Vị giáo sư ra hiệu cho cả lớp im lặng rồi bảo các sinh viên hãy quan sát thật kỹ một lần nữa. Cả lớp im ăng ắng. Mãi một lúc sau ông mới chậm rãi nói: "Thoạt nhìn ai cũng nghĩ đây chỉ là bức tranh tầm thường như những bức tranh khác. Thế nhưng có một chi tiết nói lên tất cả ý nghĩa của bức tranh: hai người nông dân đang hằm hằm sát khí để loại trừ nhau lại đang mắc cạn trong cồn cát. Từng cơn gió thổi đến, cát bụi đang kéo tới phủ lấp hai người đến quá đầu gối mà hai người không ai hay biết".
Vị giáo sư ngừng lại hồi lâu rồi nói tiếp: "Goya muốn cho chúng ta thấy rằng cả hai người nông dân này sắp chết. Họ sẽ không chết vì những cú dùi cui giáng vào nhau mà do cát bụi đang từ từ chôn vùi họ. Thế nhưng thay vì giúp nhau để thoát khỏi cái chết, họ lại cư xử chẳng khác nào loài thú dữ: họ cắn xé nhau. Bức tranh trên đây của danh họa Goya nói lên phần nào tình cảnh mà nhân loại chúng ta đang trải qua. Thay vì giúp nhau để ra khỏi không biết bao nhiêu tai họa, đói khổ, động đất, khủng bố, chiến tranh… thì con người lại giành giật chém giết lẫn nhau.
Bức tranh ấy có lẽ không chỉ diễn ra ở một nơi nào đó ngoài cuộc sống của các bạn, mà không chừng đang diễn ra hằng ngày trong các mối tương quan của ta với người xung quanh. Cơn cám dỗ muốn thanh toán và loại trừ người khác có lẽ vẫn còn đang gặm nhấm nơi từng con người.
Một trong những cách tốt đẹp nhất để tiêu diệt một kẻ thù chính là biến kẻ thù ấy trở thành một người bạn. Ngay chính trong cơn quẫn bách và đe dọa tứ phía, ta hãy liên đới để bảo vệ nhau, bảo vệ sự sống, bảo vệ hành tinh này"
Kết đôi không rời.
Hạnh Đoan
Ngày xưa, có trận đại hồng thuỷ dâng nước lên cao, chẩy xiết cuồn cuộn sắp nhận chìm địa cầu. Loài người và các loài khác nhanh chóng chạy lên thuyền lánh nạn.
Thiện, chàng trai hiền lành, thấy nước dâng lên nhanh, cũng vội vàng chạy đến bên thuyền, nhưng lại bị các thành viên trên thuyền, nhưng lại bị các thành viên trên thuyền cự tuyệt :
Theo quy định ai có đôi có cặp mới được lên thuyền này, phải như vậy mới may ra còn khả năng lưu truyền cháu con cho hậu thế.
Thiện nghe vậy đành quay lại, chạy vào làng tìm đối tượng của mình. Nhưng thiệt là khó khăn, chạy rã chân, tìm mỏi mắt mà chẳng kiếm được ai. Chợt thấy nàng Ác cũng đang sốt vó kiếm bạn kết đôi để được phép lên thuyền. Hai kẻ cô đơn gập nhau, mừng rỡ cùng bắt cặp và kéo nhau chạy như bay lên thuyền.
Khi họ vừa đặt chân lên thuyền, Thiện và Ác vô cùng kinh ngạc. Vì ngồi trong thuyển là từng đôi tương phản như y hệt với họ. Nào là Đẹp và Xấu, Ưa và Ghét. Phải và Trái, Vui vơi Buồn, Cao Thượng và Thấp Hèn, Tình Yêu và Thù Hận, Hoan Hỉ với Sầu Lo, Sung Sướng và Đau Khổ, đồng kết lại thành cặp để dìu nhau qua cơn hoạn nạn.
Vì thế, khi sóng gió qua đi, các cặp “uyên ương” này vẫn sống sót và lưu truyền con cháu đông đúc theo một quy luật bất di Bất dịch là : Ở đâu có thiện thì ở đó có ác, có may thì có rủi, phúc hoạ vĩnh viễn chung đôi . . . Cứ thế mà con cháu chút chít của các cặp này theo sát nhau bền bỉ, không hề lìa xa trên thế giới này.
Trên đời này, tạo hoá chẳng bao giờ ban tặng cho con người một hoàn cảnh thuận tiện, hoàn toàn tốt đẹp. Trong cái rủi cũng có cái may, khi có nụ cười cũng bao hàm cả nước mắt. Những cặp “phạm trù tương phản này luôn có mặt trong đời sống, góp phần thử thách, và tôi luyện, giúp con, người ngày một trưởng thành tốt đẹp hơn.
Nhận chân được quy luật cuộc đời luôn tồn tại, chứa đựng những mâu thuẫn đối lập là tuệ giác. Nhờ vậy, chúng ta luôn tự chủ, bình thản trước mọi biến động, những đổi thay nghiệt ngã của cuộc đời. Thuận cảnh vốn tốt đẹp nhưng thường làm ta ngủ quên và ỷ lại. Nghịch cảnh tuy chướng ngại nhưng sẽ giúp ta thức tỉnh và phát tiết tài hoa. Nhất là, nhận ra tuy đối lập nhưng chúng chỉ là hai mặt của một vấn đề. Chúng không tách rời hẳn nhau mà cùng nương nhau để tồn tại.
Hãy nhìn những cây đại thọ sần sùi cao ngất, cành lá xanh tốt. Sở dĩ chúng vững chãi là do đã trải qua và chịu đựng biết bao gió mưa khắc nghiệt nhưng chính giông bão cũng góp phần tạo nên vững chắc cho cổ thụ. Vượt qua được sự trui rèn toàn diện như thế nên cây mới mạnh mẽ, xum xuê, thành đại thọ hùng vĩ.
Chúng ta luôn hướng về điều thiện, tránh xa xấu ác. Tuy nhiên, không vì thế mà xua đuổi, ghét bỏ những gì chưa hoàn thiện. Bởi thiện ác, tốt xấu, phải trái, hơn thua vốn là hai mặt của một vấn đề. Vì thế, sự chuyển hoá, thăng hoa từ những điều chưa tốt thành tốt đẹp là điều cần và có thể làm được trong đời sống này.
Củi lửa tranh hùng.
(Kể theo Truyện ngụ ngôn của Lâm Thanh Huyền)
Trong gia đình nọ, bà chủ đang nhóm lửa nấu cơm. Nhờ củi khô nên lửa bắt nhanh, cháy bừng, chẳng mấy chốc thì cơm chín.
Nghe mùi cơm bốc thơm lừng, củi không nhịn được, buột miệng khoe :
-Nhờ tôi cả đấy ! Nếu không có tôi, làm sao mà nấu cơm chín thơm như thế chứ !
Lửa không đồng ý, cười khẩy bảo :
-Rõ ba hoa ! Không có tôi toả hơi nóng thì làm sao mà cơm chín được ?
Hai bên tranh cãi không ngừng, cuối cùng chúng ước hẹn bảy ngày sau sẽ gặp nhau giữa rừng quyết đấu, cùng sống mái một phen.
Rắp tâm giành phần thắng, củi mời hết dòng họ tới nằm, ngồi . . . chật kín cả khu rừng. Nghĩa là già, trẻ, lớn, bé gì cũng được tận dụng từ nhánh đến lá . . . chúng chất chồng sắp lớp dày đặc, xem như thần dân củi bao kín cả khu rừng.
Lửa rất tự tin, chẳng cần huy động lực lượng hùng hậu như củi, chỉ mời một bằng hữu duy nhất đến trợ giúp là gió.
Cuộc hỗn chiến nổ ra, ngang tài ngang sức, bất phân thắng bại.
-Nhất định ta sẽ đánh gục ngươi !
Củi hung hăng nói.
Lửa vênh mặt :
-Đồ láo lếu ! Hãy xem ta tiêu diệt ngươi này !
Hai bên sát phạt nhau suốt 49 ngày, cuối cùng dòng họ và bạn bè củi thảy đều hy sinh, tất cả đều mất xác trong chiến trận ác liệt ấy. Riêng phần lửa, mới đầu hăng lắm, lửa bốc cao, cháy phừng phừng nhưng càng về sau thì yếu dần, thoi thóp . . . Khi thanh củi khô cuối cùng vong mạng, lửa cũng tắt luôn.
Củi và lửa đều chiến bại thê thảm. Củi chết thì lửa cũng tiêu. Chỉ tội nghiệp khu rừng mất trăm tuổi sau trận chiến bỗng trở thành hoang tàn thê lương, không còn dáng vẻ xinh đẹp như thời hoà bình !
Sống ở đời, mỗi người có thân phận, hoàn cảnh gia đình riêng song nhịp sống của chúng ta thành hình từ mối tương quan trùng trùng duyên khởi, nương vào nhau mà tồn tại. Sự liên kết này giống như củi với lửa, củi nhờ lửa mà toả nhiệt, lửa nhờ củi mà bốc cháy liên tục. Cuộc sống thật đẹp khi ta biết tương trợ, tuỳ hỷ với thành quả của nhau.
Chúng ta và tất cả mọi người cùng góp mặt trên cõi đời này, tức là cùng có duyên sâu sắc với nhau. Nếu ta sống đoàn kết, đồng tâm thì cuộc sống sẽ ấm áp tình người, tràn đầy năng lượng tuệ giác và yêu thương để có thể xây dựng nên một thế giới phồn thịnh, hạnh phúc.
Trong đoàn thể người với người, nếu ta tự tách mình thành một cá thể riêng biệt; nếu ta chỉ biết vui, tự mãn vời thành quả của mình và không hài lòng nhìn thấy những người quanh mình thành công, thì ta cũng vấp phải sai lầm trầm trọng hệt như củi và lửa.
Ta nhận ra rằng những thành công, những kết quả ta có được đều nhờ sự góp sức thầm lặng của bao người. Từ những hạt cơm đến từng ly nước . . . nghĩa là tất cả mọi hưởng dụng của ta trong cuộc đời này đều có sự tương quan, hỗ trợ của người khác. Không có họ, ta sẽ không được như thế này !
Bao giờ ta hiểu rằng mình cũng là một phần trong đại thể và những thành công, vinh quang của mình hay người đều là của nhau, thì lòng ta sẽ phát khởi niềm hoan hỷ tự nhiên trước thành công, vinh quang của bè bạn, của bao người quanh mình. Ta sẽ chúc mừng cho bạn bằng hân hoan chân thành tận đáy lòng, bởi nỗi vui này không còn là niềm vui riêng nữa – thành quả của bạn cũng là của mình – vì trong một có tất cả và ngược lại.
Bao giờ tâm ta không còn mầm mống chia rẽ, Tách biệt thì dù không rao giảng hoà bình, ta vẫn nếm được mùi vị thân thiện hoà vui. Còn nếu ta sống chỉ biết tách rời, chia rẽ, huỷ hoại, bài xích người thì chính là ta đang tự hại mình. Cho dù ta có được tồn tại thì đó cũng chỉ là sống mòn trong tổn thương, mất mát và đau khổ.
Trăm sự nhờ vào Bồ Tát.
(Kể theo Truyện ngụ ngôn của Lâm Thanh Huyền)
Trước khi cùng nhau làm một chuyến viễn du dài hạn, sư phụ kêu đệ tử tới bảo :
-Bồ Tát Quán Thế Âm từ bi và linh lắm. Bởi vậy Ngài mới có danh hiệu : “Tầm thinh cứu khổ Quán Thế Âm Bồ Tát “ Nếu người bị khổ nạn, niệm danh Ngài, Ngài sẽ nương theo âm thanh cầu nguyện . . . mà tìm tới, giải khổ cho.
Sau đó, thầy và đệ tử mỗi người cỡi một con lừa đi du phương. Tới một quán trọ, sư phụ vào trước, dặn đệ tử buộc lừa cẩn thận.
Đệ tử đứng bên ngoài quán trọ, ngắm trời nhìn mây. Sau đó chú cẩn thận tụng một thời kinh cầu an, thành khẩn lễ bái, rồi ngửa mặt lên trời, lâm râm khấn nguyện :
-Thưa Bồ Tát, xin Ngài để mắt tới hai con lừa dùm con. Khấn xong, chú lạy vùi ba lạy, chẳng thèm cột nhốt gì, ung dung bước vào quán trọ ngủ một giấc tới sáng bét.
Sau buổi điểm tâm, trước lúc lên đường, sư phụ phát hiện lừa đã mất, bèn kêu đệ tử hỏi :
-Lừa của chúng ta đâu ?
Đệ tử bấy giờ mới hoảng hốt, cuống quít đi tìm quanh, không thấy lừa bèn thưa với sư phụ :
-Việc này thầy phải hỏi Bồ Tát ấy. Tối qua con có gởi gấm Bồ Tát coi chừng dùm lừa, cũng đã tụng niệm, lạy Ngài ba lạy rất thành khẩn. Thầy không phải đã từng dạy con nên tin tưởng Bồ Tát sao ?
Sư phụ tức giận nói :
-Đúng là ta có dạy chú phải tin Bồ Tát, nhưng trước khi cầu tha lực, chú phải tự lực hết sức mình chứ. Chú cũng có tay thì nên dùng tay của mình mà buộc kỹ lừa, sao lại nạnh Bồ Tát cột dùm. Chú có mắt, sao chẳng chịu dòm ngó . . . mà lại nhờ Bồ tát coi dùm ? Cái gì làm được thì tự làm, làm không được mới nhờ bên ngoài trợ giúp, đừng có lười nhác ỷ lại vào bất cứ ai. Trong ngàn tay ngàn mắt của Bồ Tát cũng có tay, mắt của chú ở trong đó mà. Chú không chịu mó tay, để mắt vào thì mất lừa là lẽ tất nhiên thôi ! Có vị Bồ Tát nào lại chịu giúp cho chú tăng thêm thói tật lười nhác hử ?
Đúng là trước khi cầu tha lực, ta phải dốc sức tự lực trước. giống như muốn khoẻ mạnh thì phải ăn, ngủ, làm việc . . . điều độ. Muốn đi đường bình an thì phải chấp hành luật giao thông. Muốn không bị cướp giật thì chẳng nên đeo của báu đắt tiền lấp lánh. Chưa kể có những người đeo nhiều trang sức, khoe lồ lộ rồi còn đi vào chỗ vắng, thậm chí khuya lắc khuya lơ vẫn còn lang thang ngoài đường, hoặc cứ phóng nhanh giành đường vượt ẩu rồi lý luận rằng : Mọi sự đã có Phật và Bồ Tát gia hộ . . . vì mình là đệ tử các Ngài, vì mình đã chí thành lễ bái Phật ngày đêm, các Ngài có bổn phận phải bảo bảo hiểm tài sản, nhân mạng cho mình ! Lý luận kiểu này giống hệt anh chàng không chịu buộc, nhốt lừa cẩn thận. Đành là đôi khi ta buộc chặt, nhốt kỹ mà vẫn bị mất. Xong, nếu ta cẩn thận, dẫu có rủi ro đi nữa cũng ít ân hận hơn là cứ cẩu thả ỷ lại. Ta có khả năng tự bảo hộ mà không thèm ứng dụng, lại đòi chư Phật, Bồ Tát phải thường xuyên để mắt tới, bảo an cho ta . . . Như vậy thật là vô lý ! Chắc chắn chẳng “bề trên”nào thèm giúp cho một kẻ không biết tự chăm sóc, lười biếng và luôn ngong ngóng, trông chờ lực giúp đỡ từ bên ngoài.
Con cá vàng.
(Kể theo Truyện ngụ ngôn của Lâm Thanh Huyền)
Có một chàng ngư phủ giăng lưới bắt được con cá vàng. Toàn thân nó óng ánh như sắc hoàng kim, mỗi chiếc vẩy chiếu lấp lánh, chói lọi. Quả là con cá quý hiếm, đẹp chưa từng thấy.
Chàng ngư phủ ngắm con cá không nháy mắt, ngẫm nghĩ hồi lâu rồi quyết định đem nó dâng vua để bầy tỏ tấm lòng trung thành của một bề tôi lương hảo.
Đức vua cảm động và thích lắm, truyền ban thưởng cho chàng ngư phủ nhiều vàng bạc đến nỗi đủ để chàng bỏ nghề đánh cá, hưởng thú nhàn vinh.
Vua bỏ con cá vàng vào chậu quý, ngày ngày ngắm nó say sưa. Nhưng thật lạ, vài ngày sau, không biết mùi gì thum thủm thối từ đâu xông lên làm nhức đầu, nhức óc, nghẹt mũi cả triều đình. Mới đầu, vua sai quân lính đi lục soát quanh hoàng cung xem có ai xả rác hoặc thải chất dơ quanh đấy không. Chẳng thấy gì, vua lại bảo lính đi tuần hành quanh hoàng cung xa hơn cây số để kiểm tra. . . cũng không thấy gì nốt. Trong khi cái mùi hôi ngày càng bốc lên nồng nặc, nhất là ở cung vua. Các hoàng phi, cung nữ hãi quá, lo lắng kiểm tra xiêm y, tóc tai cẩn thận, cố không để vấy chút bụi hay vương chút mùi hôi nào. Nước hoa trở nên đắt như vàng vì quý bà, quý cô, thậm chí quý ông . . . cho đến lính hầu đều tập tành xài, bởi mùi tanh tưởi xông hôi khắp chốn, ai cũng sợ bị hiểu nhầm mình là nguyên nhân. Cho tới một ngày kia, vua tình cờ khám phá cái mùi hôi thối ấy bốc lên từ trong hồ cá, hay nói chính xác hơn là . . . từ miệng con cá vàng ! Rõ rệt nhất là khi cá vàng hả miệng ra thì mùi hôi thúi từ miệng nó bốc lên nồng nặc.
Vua kinh ngạc, nghĩ thầm : Con cá vàng này xinh đẹp và quý hiếm. Nhưng sao nó lại tiết ra hơi thúi kinh khủng thế ? Còn đang thắc mắc thì vua nghe kể ở ngoại thành có một kỳ nhân có thể nghe và hiểu được tiếng loài cá, vua mừng lắm, tức tốc cho vời ngư sư vào triều.
Vị ngư sư đứng trước bể cá, bịt mũi lắng nghe nó nói chuyện một hồi, rồi vội vã bước ra ngoài. Vua theo sau gạn hỏi, vị ngư sư thở ra một hơi dài vì nãy giờ nín thở lâu quá. Sau đó chậm rãi thưa :
-Tâu Bệ hạ ! Thần đã từng trò chuyện với dòng họ cá vàng này, đây là giống cá hiếm quý, tuyệt mỹ nhất thế gian. Theo thần được biết thì loài cá này đa số tính tình rất hiền và tiếng nói của chúng cực kỳ hoà nhã êm tai. Nhưng riêng con cá vàng này thì ngược lại, tính khí vừa cộc cằn lại nóng nảy, thêm cái tật ác khẩu, hễ hả miệng là mắng nhiếc chửi rủa, nói toàn những lời thô tục khó nghe. Chưa kể đến cái thói xấu ưa thêu dệt, chỉ trích, nói lén, nói xấu sau lưng người, à không, sau lưng cá ! Nó chuyên nói toàn những lời làm tổn thương, xúc não kẻ khác. Nên những lời từ miệng nó tuôn ra đều hoá thành hơi thối khủng khiếp. Đây là lý do tại sao nó phả hơi thum thủm khắp hoàng cung khiến không ai chịu nổi ! Hồi mới bị bắt, do sợ hãi nên nó hầu như cấm khẩu, nên bệ hạ chẳng nghe thối, giờ tại nó hả miệng nói nhiều quá nên hơi thối mới bay đi tứ phương .
Quốc vương nghe xong, ngán ngẩm, bảo :
-Trẫm thấy con cá này không đủ tư cách sống trong chậu quý của hoàng cung, càng không xứng đáng ở chung với đồng loại ! Nó sẽ được ở chỗ xứng hợp với tánh tật của nó.
Nói xong, vua sai người ném con cá vào lỗ cống, cho nó suốt đời ngụp lặn với nước bẩn tanh hôi.
Nếu chúng ta mở miệng thì văng tục, chửi rủa, nói lỗi sau lưng, chỉ trích nhạo báng người . . . tức là ta đang nói lời không sạch. Lời đã không sạch, thì miệng phải dơ theo. Ngôn ngữ mà xấu ác tất sẽ chứa toàn hơi xú uế, một khi thoát ra khỏi miệng nó sẽ làm bẩn bầu không khí chung quanh, khiến những người thiện lành đều nhăn mặt, lắc đầu khi nghe phải và chỉ muốn bỏ đi cho lẹ.
Ngài Hư Vân có kể chuyện một mỹ nữ, mỗi khi cô cất tiếng nói, miệng thường phả hương sen thơm ngát. Ai cũng lấy làm lạ. Truy nguyên, mới biết kiếp quá khứ cô từng tụng kinh Pháp Hoa nên cảm quả báu lành như vậy.
Có một phụ nữ răng miệng xinh đẹp, dung nhan mỹ miều, cô ta có thói quen rất thích tụng kinh Pháp Hoa, xong lại có tật ưa chửi rủa, nói xấu người. Mỗi khi được ai nhắc cô đừng tạo khẩu nghiệp ác, cô thường bảo : “Có tội thì tụng kinh Pháp Hoa hết tội “. Và cô tỏ ra hãnh diện với phước tướng hơn người của mình. Một vị sư giải thích : “Có thể cô không mất tướng đẹp này, nhưng kinh nói :”Dùng lời thêu dệt, ác khẩu chửi rủa làm tổn hại người sẽ bị quả báo phát âm không rõ, hơi miệng hôi thối.” Cô nghe xong hoảng sợ, lưu tâm sửa sai.
Chúng ta ai cũng sợ miệng hôi, súc miệng thì đánh răng với kem, còn ngậm nước thơm cho hơi miệng thanh sạch. Có nghĩa là ta rất thích giữ miệng thuần khiết. Thế thì tại sao ta không thể dùng ngôn ngữ thuần khiết ? Phật dạy nên dùng lời nói chân thật, yêu thương trong đời sống tu tập và độ sinh, thế mới biết tầm quan trọng của nó không nhỏ.
Cá vàng đẹp đến nỗi ai nhìn cũng thích, nhưng tật tánh của nó đã khiến người ta vứt bỏ không hối tiếc. Người mang ngoại hình xinh đẹp mà tâm tư xấu ác, nói lời bất thiện, thực chất họ đang tự hại chính mình.
Buôn bán.
Thích Nhuận Thạnh.
Một Phật tử rất tinh tấn niệm Phật, mỗi ngày niệm hai tiếng đồng hồ, dù là mưa gió hay nóng bức cỡ nào cũng không bỏ.
Cũng trong cùng một đạo tràng, lại có một Phật tử giãi đãi lười biếng, ưa phóng khoáng, dù có đến chùa nhưng lại không siêng tụng kinh niệm Phật.
Một hôm Phật tử giãi đãi hỏi vị Phật tử niệm Phật tinh tấn :
-Được lợi ích gì mà đạo hữu niệm Phật hoài vậy ?
Vị Phật tử kia đáp :
-Lại thêm một đạo hữu buôn bán.
Trong cuộc sống, con người thật khó thoát được vòng nhân quả nghiệp báo. Bởi vì trong mỗi hành vi phải hàm chứa nhân và quả, cộng với bản ngã, thời gian, luân hồi sinh tử nghiệp báo. Chúng ta thường tính toán cái gì có ích thì ta mới làm, mà không biết rằng chút bèo danh bọt lợi đó, chỉ trôi giạt trong đợt sóng sanh diệt luân phiên của vô thường xảy ra trong từng giây, từng phút.
Nếu thật sự muốn cầu được đạo giải thoát lớn thì chẳng cần phải tính toán chút ít lợi danh, vì trong các pháp, tự nó đã là cái dụng vô cùng, ẩn chứa thể - tướng của đạo viên mãn, sao chúng ta lại còn phải tính toán hơn thiệt ? người tránh cái hại lại đi tìm cái lợi nhỏ nhen sao bằng tâm địa viên dung vô ngại bất khả tư nghì, dù lợi hay hại vẫn tự tại an nhiên trong mỗi bước chân, nụ cười và hơi thở chánh niệm ?
Vợ chồng xứng đôi.
(Kể theo Truyện ngụ ngôn của Lâm Thanh Huyền)
Xưa có đôi vợ chồng xinh đẹp, phong độ hơn người. Vốn hiền lành, họ sống với nhau rất hoà thuận êm ấm.
Do quá xứng đôi nên suốt ngày họ cứ ngồi đâu mặt, mê mải ngắm nhau. Họ nhìn nhau say sưa mê mệt quên hết trời đất, thời gian mà không hề thấy chán.
Một ngày nọ, bất hạnh giáng xuống, mắt của hai người đều vương bịnh, không bao lâu thì bị mù. Chồng không còn nhìn rõ vợ, vợ hết trông thấy chồng. Việc này khiến hai vợ chồng rất đau buồn, lo lắng.
Người chồng nghĩ : “Vợ ta dung mạo mỹ miều như thế, ta lại không được nhìn ngắm nàng, ta phải lo mà giữ nàng kẻo không đàn ông họ đoạt mất.”
Người vợ cũng nghĩ như chồng : “Chồng ta tuấn tú khôi ngô như vậy, cho dù mắt chàng hết nhìn thấy gì, song vẫn dư sức làm mấy bà chết mê, chết mệt. Cho nên dù có đui, ta cũng phải ráng mà canh chừng chàng !”
Hai người đều sợ mất nhau, đi đâu cũng quấn quít, theo sát nhau chẳng dám lìa xa một phút. Do không thấy gì nên họ cứ hoài nghi, lo sợ vẩn vơ.
Cứ thế trải qua hai mươi năm.
Ngày nọ, có một vị thần y từ phương xa đi ngang qua thị trấn này. Tình cờ gặp hai vợ chồng, thần y thấy tội, bèn ra sức chữa trị khiến mắt họ được sáng lại như xưa.
Giây phút đầu tiên hai vợ chồng được nhìn thấy nhau, họ bỗng rú lên một tiếng.
Người chồng ngạc nhiên nói :
-Ôi trời ! Mụ già nào đây ? Nhất định mụ không phải là cô vợ xinh đẹp, khả ái của ta !
Người vợ giẫy nẩy bảo :
-Lão già cà chớn ! Lão cũng không phải là chồng ta ! Chồng ta tuấn tú khôi ngô, ai thấy cũng yêu chứ đâu có già khụ như lão ?
Bởi vì trong lòng họ chỉ có hình bóng yêu kiều trẻ trung của nhau, nên không thể chấp nhận được hình dáng già nua đang phơi bày trước mắt mình. Mặc cho mọi người chung quanh khuyên giải, họ cứ khăng khăng không chịu nhận là vợ chồng của nhau.
Đổi thay của 20 năm là khoảng thời gian dài để chúng ta có thể chấp nhận và thông cảm. Những đổi thay của tháng trước, tuần rồi ta cũng có thể chấp nhận được. Xong, những đổi thay của ngày hôm qua, ngày nay và giây phút trước của chính ta và mọi người – thật khó cảm thông và chấp nhận ! Dòng đời, dòng thời gian, dòng tâm thức, vẫn miên man trôi chảy và biến chuyển không ngừng. người đứng trước mặt ta, hình hài tuy không đổi khác nhưng từng niệm trong tâm họ luôn thay đổi, xong ta không nhận ra điều đó. Mà nếu có nhận ra ta sẽ trách ngay : “Người gì mà hay thay đổi !” Ta giống như cặp vợ chồng trong truyện, đem hình ảnh cũ, những hiểu biết cũ máng vào cái hình hài tâm thức mới, kết quả là ta thường gặp điều nghịch ý, không vui. Vì ta không thể bắt người khác phải suy nghĩ và đối với ta y hệt như ngày hôm qua hoặc giây phút trước. Lý do là cái tâm vọng luôn thay đổi lăng xăng, chợt vui chợt buồn, chợt tốt chợt xấu, bình yên đó rồi dậy sóng đó. Ngay chính người cưu mang nó cũng không làm chủ, không kiểm soát kịp nữa là ! Còn cái tâm chân dù bất biến, xong ta chưa hằng sống được với nó nên ta cứ bị vọng niệm xỏ mũi kéo chạy dài dài, tâm ta cứ bập bềnh trôi nổi theo những vọng niệm không ngừng sanh diệt.
Các bậc Giác ngộ thường khuyên : “Hãy nhìn sự việc như nó đang hiển hiện, đừng hy vọng nắm bắt hay uốn nắn nó theo ý mình”. Làm được vậy ta mới có thể hạnh phúc và sẽ dễ cảm thông, bao dung hơn trước, cái thói tật mưa nắng thất thường của người đời. Ta phải tập nhìn sự vật như nó đang hiển hiện, để tránh cho mình khỏi phải thất vọng vì những yêu sách, những bắt buộc không đâu mà ta đòi hỏi ở người. Khi biết nhìn và chấp nhận hiện tại, tâm ta sẽ được an tịnh, sáng suốt hơn.
Giành phần hơn
(Kể theo Kinh Bách Dụ)
Có một đôi vợ chồng đói khổ kiếm được ba cái bánh. Hai vợ chồng mỗi người ăn một cái, còn thừa lại một cái.
Người chồng nói :
-Tôi ra ngoài làm việc cực khổ lắm, cái bánh này tôi ăn mới đúng !
Cô vợ phản đối :
-Đâu được ! Tôi ở trong nhà vất vả hơn ông nhiều, phải để tôi ăn chứ !
Hai vợ chồng tranh giành cả buổi, chẳng ai chịu nhường ai.
Cuối cùng họ bảo nhau :
-Giờ chúng ta hãy so tài đi. Hễ ai mở miệng nói trước là coi như thua. Người thắng cuộc sẽ hưởng trọn cái bánh.
Giao ước xong, hai người ngồi cạnh cái bánh ngó chăm chăm không rời, chẳng ai dám mở miệng nói.
Được một hồi lâu, có tên trộm lẻn vào nhà sau, do hai vợ chồng giữ im lặng cao độ nên tên trộm ngỡ nhà vắng người, nó yên chí ung dung quơ đồ đạc, vật dụng bỏ vào bao.
Xong, tên trộm vác bao đi lên, lúc ngang qua nhà trên nó mới phát hiện hai vợ chồng đang ngồi im lìm ở đó.
Mới đầu tên trộm hoảng hốt hét lên một tiếng, xong thấy hai vợ chồng kia vẫn im lặng không nói, nó đâm ra bạo gan và tò mò tiến lại gần quan sát, thấy họ vẫn ngồi im như tượng, nó nảy ý muốn chọc ghẹo cô vợ.
Bị tên trộm giở trò sàm sỡ, cô vợ nhịn hết nổi, hét toáng lên :
-Làng xóm ơi ! Bắt trộm nè !
Tên trộm nghe la, sợ hãi bỏ chạy.
Cô vợ giận dữ, nhiếc chồng :
-Anh có ngu thì ngu vừa vừa thôi ! Vì một cái bánh, trộm vào nhà lấy hết đồ đạc và sàm sỡ với tôi mà anh cũng im lìm bất động thì tệ quá !
Anh chồng lúc này mới vỗ tay cười to :
-Ha ha ! Thắng rồi ! cái bánh này giờ xem như tôi hưởng trọn, khỏi phải chia cho mụ . . . ha ha !
Đọc xong câu chuyện này ắt chúng ta sẽ nghĩ : “Có đôi vợ chồng nào lại ham ăn và ngu dữ vậy ? Thèm ăn thì cắt đôi cái bánh ra mà chia nhau, ai cũng có phần, cùng ăn, cùng vui, có phải hay hơn không “. Song trong cuộc sống, đôi lúc ta cũng giống như đôi vợ chồng nọ, vì chúng ta vẫn có những ý niệm háo thắng, so kè (với người thân yêu nhất) từng chút một.
Chúng ta sẽ không chịu nhường nhau (dù tí xíu) vì bị lòng háo thắng, tranh hơn thua làm mù quáng. Chẳng hạn như : trong cuộc cãi lẩy nhỏ, ta vẫn muốn giành phần thắng, giành phần hơn, giành lý đúng về mình. Ta sẵn sàng “ăn thua đủ” với mọi người từng lời và không ai chịu nhường nhịn ai. Kết cuộc là dù nguyên nhân nhỏ nhưng chỉ một chút háo thắng muốn hơn đó, lại dẫn đến hậu quả lớn, gieo tổn thương và đổ vỡ khó bù đắp.
Anh chồng hí hửng mừng vì cái bánh dư thuộc về mình (mà quên béng đó là người thân yêu nhất, người mà có thể đã có lần ta từng nói là “thương họ hơn cả bản thân mình”), cũng giống hệt vẻ khoái trá của ta khi thắng cuộc. Xong, phần thưởng mà ta có được trong cuộc đấu lý hơn thua đó, giá trị nó chẳng có bao nhiêu, đôi lúc còn nhỏ hơn cái bánh nữa.
Hạnh Đoan
Chim anh vũ.
(Kể theo Truyện cổ Phật giáo)
Ngày xưa, có con chim anh vũ rất xinh đẹp, trên đường về tổ, thấy một khu rừng xinh tốt xum xuê nên hứng chí bay vào thám thính.
Các con vật trong khu rừng này thấy chim anh vũ dễ thương liền chạy đến chào hỏi, làm quen, chơi đùa với nó. Anh vũ thấy cầm thú ở đây không kiêu kỳ, đối xử với nó tử tế như là ruột thịt, cảm động lắm, bèn lưu lại vui chơi.
Được một thời gian, anh vũ đâm ra nhớ nhà, nó nghĩ thầm :” Bạn bè ở đây quả là rất tuyệt nhưng mình cũng phải quay về với gia đình, không thể cứ ở đây mãi”.
Thế là nó từ biệt những người bạn tốt mới quen. Các loài thú trong rừng đều tỏ vẻ lưu luyến, không muốn xa rời.
Anh vũ về nhà mình rồi, thỉnh thoảng bay đến khu rừng nọ thăm viếng bạn bè, mối tương giao ngày càng tốt đẹp.
Một hôm, khu rừng bạn bè nó bốc cháy, toàn bộ loài cầm thú đều bị lửa vây, không cách chi chạy thoát.
Từ xa, anh vũ nhìn thấy khói bốc cao, nó vội bay đến, ra sức cứu chữa. Nó sà xuống dòng suối, không ngừng quạt cánh vớt nước lên, đem rưới xuống khu rừng đang cháy.
Nó bay tới bay lui làm như vậy hàng trăm lần, hành động của nó khiến Thiên thần chú ý. Thiên thần bảo :
-Này ! Này ! Con chim bé tí kia ! Sao mi ngu tơn thế hử ? Khu rừng này bị cháy dữ dội như thế, không lẽ mấy giọt nước cỏn con mi mang về có thể dập tắt được lửa hay sao ?
Chim anh vũ vừa khóc vừa không ngừng làm việc, bảo Thiên thần :
-Tôi cũng biết là khó khăn, nhưng hồi xưa khi tôi đến khu rừng này, các bạn ở đây đối với tôi rất nhân hậu nghĩa tình, bây giờ tất cả đều bị nạn, làm sao tôi có thể giương mắt đứng nhìn ? Tôi nhất quyết dập lửa cứu bạn cho dù lông cánh tôi tả tơi đứt lìa và dẫu có chết, tôi cũng không bỏ cuộc.
Thiên thần nghe nói, xúc động bảo :
-Để ta giúp ngươi.
Thiên thần liền chúm miệng thổi ra một luồng hơi hoá thành cơn mưa lớn dập lửa tắt ngấm.
Chim anh vũ được bạn bè quan tâm, đối xử tử tế mà nhớ ơn, sẵn sàng xả thân đáp tạ. Đây là đức hạnh căn bản để thiết lập hoà hiếu, an lạc và thái bình.
Trong đời sống, ai cũng cò lần chứng kiến hoặc lâm vào những thiên tai, hoạn nạn. Lúc tai nạn xảy ra, chúng ta chỉ biết tìm cách thoát thân. Thật cảm động khi chứng kiến cảnh động đất, sóng thần, lụt lội, hoả tai, nhiều người vì cứu nạn mà bị thương, thậm chí đã vĩnh viễn nằm xuống, tấm lòng nhân ái, vị tha của họ chẳng khác gì từ tâm của chim anh vũ trong kinh Phật.
Dù thực tế chúng ta chẳng gập thiên thần nào đến phụ giúp cả. Nhưng trước các thảm hoạ, tâm từ bi và lòng vị tha dâng trào đến độ quên mình, nhờ vậy mà họ trở thành thiên thần, làm nên kỳ tích.
Chim anh vũ dùng sức bé bỏng của mình mong dập tắt trận hoả tai đang thiêu cháy khu rừng, tấm lòng từ của chim anh vũ và Bồ Tát đều có chung một nguồn cội : tâm Phật. Những hành động phát xuất từ tâm Phật luôn đem đến tốt lành, do vậy mà các Ngài đã không nề gian khổ dấn thân vào cuộc đời để chỉ cho chúng ta biết sống vô ngã, vị tha.
Hạnh phúc của bản thân luôn chính là hạnh phúc của mọi người và ngược lại.
Hạnh Đoan
Chiếc răng chó mầu nhiệm.
(Theo Sư tử tuyết bờm xanh, Nguyễn Tường Bách phiên dịch)
Ngày xưa, ở Tây Tạng có một bà lão sống với đứa con trai. Đứa con làm nghề buôn bán, phải đi Ấn Độ thường xuyên. Ngày kia, đứa con sắp phải lên đường đi Ấn Độ thì bà mẹ bảo :
-Giác thành tại Ấn Độ là nơi Đức Phật Thích Ca thành đạo, vì thế mẹ nhờ con mang về một cái gì từ nơi đó. Có thể là một ít tro xương hay bùa trú, pháp khí gì đó. Mẹ sẽ thờ và xem như chính sự hiện diện của Đức Phật trong nhà mình.”
Năm này qua năm khác, bà mẹ nhắc nhở đứa con, nhưng lần nào đứa con cũng về lại Tây Tạng mà không thực hiện được lời mẹ dặn.
Một ngày nọ, đứa con lại lên đường đi Ấn Độ và bà mẹ nói :
-Lần này con không mang gì cho mẹ từ Giác thành về để mẹ thờ thì mẹ sẽ tự tử chết thôi.”
Đứa con lấy làm sợ lòng quyết tâm của mẹ, hứa lần này sẽ không quên.
Sau vài tháng làm việc, người con lên đường trở về nhà, bỗng nhớ rằng mình đã không ghé ngang Giác thành để tìm xương tro cho mẹ. “Làm sao bây giờ ?”, anh ta tự hỏi. “Mẹ ta sẽ tự tử thật đấy nếu không mang gì về cho bà”. Anh ta nhìn quanh thì thấy một con chó đã chết khô. Người con vội vàng nhổ một chiếc răng chó, quấn lại cẩn thận trong một chiếc khăn lụa.
Về đến nhà, đứa con ra vẻ vui mừng bảo mẹ :
-Đây chính là một chiếc răng của Phật Cồ Đàm. Tự tay con đã tìm ra được tại Giác Thành đây.
Bà mẹ đáng thương tin con và tôn quý chiếc răng, xem chiếc răng như là răng thật của Phật Cồ Đàm, Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác. Kể từ giờ phút đó, bà hết lòng thờ phụng chiếc răng và cũng không bao lâu sau đó, bà tìm được sự an lạc nội tâm, điều mà suốt đời bà ra công tìm kiếm.
Cũng không bao lâu sau thì bạn bè hàng xóm cũng nhận thấy rằng có một thứ ánh sáng ngũ sắc bao xung quanh chiếc răng, và những tia sáng huyền ảo chiếu trên đó. Mỗi ngày có nhiều người đến lạy bàn thờ của bà lão và xin được tiếp một chút năng lực của chiếc răng màu nhiệm. Tới ngày bà chết, ánh sáng ngũ sắc cũng bọc quanh thân bà và miệng bà mỉm cười làm đứa con trai đang than khóc hiểu rằng bà đã trở về với tự tánh, từ đó mọi vật được sanh thành.
Kể từ ngày đó người ta biết rằng một chiếc răng chó cũng trở thành mầu nhiệm, nhưng với điều kiện đó là sức mạnh của một trái tim sẵn sàng tiếp nhận và lòng từ bi của một vị Phật kết hợp với nhau.
Bạn thân mến !
Trong câu chuyện, bà mẹ đáng thương đã không còn đáng thương nữa. Một người trở về với tự tánh và tìm được sự an lạc nội tâm là người đã đạt được chân hạnh phúc, và đó cũng chính là mục đích tối hậu của người tu Phật.
Câu chuyện không nhấn mạnh hành động dối mẹ của người con trai – có thể hiểu là một hành vi bất hiếu – mà lại nhấn mạnh đến niềm tin trong sáng của bà mẹ chân chất, thật thà. Niềm tin mãnh liệt đối với Đức Phật đã giúp cho bà tìm được điều bà ao ước một đời. Kinh dạy, lòng tin là cội rễ của mọi phước lành, thờ xá lợi Phật, có thể làm cho chúng sanh được công đức lớn, lìa khổ ba cõi, đến vui Niết Bàn’ (Kinh Đại Bát Niết Bàn, quyển 26) Pháp môn niệm Phật cũng đề cao Tín-Nguyện-Hạnh. Tin vào xá lợi Phật là Tín, mong nghĩ Phật hiện diện là Nguyện, lễ bái xá lợi là Hạnh. Bà lão đã thành tựu được tín căn thanh tịnh, và đó cũng chính là pháp tu của bà. Niềm tin bất hoại ấy đã khiến cho chiếc răng chó trở thành mầu nhiệm. Rõ ràng các pháp đều do tâm tạo, ngoài tâm đều không có pháp – là cách tin thứ sáu trong mười cách tin thanh tịnh mà bà lão đã đạt được.
Vấn đề được đặt ra là : Ngày nay nhiều người tôn thờ xá lợi Phật, xong tại sao rất ít người có được sự an lạc nội tâm như bà lão ? Thật dễ hiểu, vì rằng, có thể người ta tổ chức những đám rước xá lợi linh đình, nhưng họ không có được một niềm tin sâu sắc vào Thế gian thường trụ Phật bảo, không có được công phu lễ bái và sự nhất tâm hành trì miên mật.
Tôn thờ xá lợi cũng chính là một pháp tu. Pháp tu không đúng thì không thể có được kết quả như mong cầu. Mầu nhiệm thay, một chiếc răng chó cũng có thể trở thành pháp lành giúp cho hành giả đạt được sự an lạc, một khi nó hội đủ “sức mạnh của một trái tim sẵn sàng tiếp nhận và lòng từ bi của một vị Phật”.
Hội đồng chuột
(Giá trị lý thuyết và thực hành )
Một hôm, họ hàng nhà chuột họp bàn tìm cách thoát khỏi nanh vuốt của kẻ thù không đội trời chung là mèo. Con nào cũng nghĩ đến nát óc mà vẫn không tìm ra cách. Cuối cùng, một chú chuột nhắt nhảy ra nói :
-Tôi nghĩ ra rồi ! Chúng ta sẽ buộc vào cổ mèo một quả chuông. Mèo đi đến đâu thì chuông kêu đến đó, và chúng ta sẽ trốn vào hang ngay lập tức.
Lũ chuột nghe xong, đồng loạt nói :
-Giỏi thật ! Kế ấy rất hay !
Lũ chuột đắc ý về mưu chước đó và quyết định tặng chuột nhắt một tấm bằng khen. Tất cả đều công nhận chuột nhắt là thông minh và bầu nó làm thủ lĩnh.
Vừa lúc đó có một con chuột già đã từng trải chuyện đời, đứng dậy tiến ra phía trước và nói :
-Các bạn ạ, kế đó quả là hay và chú chuột nhắt thông minh như thế này không tìm đâu có. Điều đó ai cũng công nhận. Nhưng tôi muốn chú ta nói rõ hơn nữa là làm cách nào mà treo được quả chuông lên cổ mèo ? Giờ cứ để chú ta dũng cảm làm việc đó. Nếu chưa làm được thì ta chưa trao bằng khen vội.
Lũ chuột nghe xong nhìn chuột nhắt, tỏ vẻ khinh bỉ rồi bỏ ra về.
Thế là hội đồng chuột vẫn chưa nghĩ ra kế gì !
(Theo Truyện cổ dân gian Ấn Độ, Cao Huy Đỉnh-Lê Sơn-Đào Phương Bình dịch)
Câu chuyện ý nhị trên còn được tìm thấy trong Truyện ngụ ngôn của La Fontaine. Bậc thầy của truyện ngụ ngôn người Pháp này đã kể lại câu chuyện bằng thơ và có phần chi tiết hơn. Kết thúc câu chuyện, La Fontaine bà rằng :
“Tôi đã thấy chán vạn
Kiểu bàn bạc ba hoa
Của thầy, đạo, cố,cha
Đâu phải là của chuột
Triều đình ví chỉ họp bàn
Quân sư nhặng xị lời tràn cung mây
Đến khi cần phải ra tay
Thì thôi chẳng thấy mặt mày một ai.
(Nguyễn Đình dịch)
Trong câu chuyện trên, hội đồng chuột có hai điều đáng khen và một điều đáng chê. Điều đáng khen thứ nhất là chuột biết bày ra kế hay; thứ hai là, lẽ ra đã vội vàng trao bằng khen cho chú chuột nhắt, chúng đã được cảnh báo kịp thời và thôi không trao bằng khen nữa. Còn điều đáng chê trách, khổ nỗi lại là mấu chốt của vấn đề, chúng toàn là một lũ hèn nhát, nghĩ ra kế hay mà không dám làm :
“Ừ, cứu họ nhà Tí
Thượng sách chính là đây
Chỉ còn mỗi việc này
Khó nhất đem buộc nhạc
Anh rằng : Tao chả ngốc
Chú bảo : Quá sức mình
Mưu cao chả thực hành
Hội đồng đành giải tán.
(La Fontaine)
Xã hội hiện nay nhan nhản những hội đồng như thế, bày ra biết bao kế hay và rồi kế hay chỉ nằm trên bàn giấy, lãng phí bao nhiêu thời gian và tiền của. Đa phần, ai cũng lo nghĩ đến sự an nguy và lợi dưỡng bản thân – ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau – mà thôi.
Trong kinh Phật, nhiều lần Đức Thế Tôn khuyến cáo chư đệ tử rằng hãy chuyên cần tu tập, bỏ ra ngoài mọi sự lý luận không cần thiết. Sự lý luận chỉ làm trở ngại cho con đường giải thoát : “Các thầy Tỳ Kheo, nếu lý luận đủ thứ thì tâm trí rối loạn. Như vậy, tuy đã xuất gia mà chưa được siêu thoát. Thế nên, các thầy Tỳ kheo, hãy bỏ tức khắc sự lý luận rối loạn tâm trí. Các thầy muốn thực hiện cái vui tịch diệt, thì chỉ có cách cấp tốc diệt trừ cái hoạ lý luận”. (Kinh Di Giáo)
Xã hội và đạo pháp rất cần những người bày ra kế hay, nhưng nếu chỉ toàn những kẻ bầy ra kế mà không ai chịu hành kế thì thật buồn và nguy thay.
Hãy khoan vội trao bằng khen cho những ai bầy kế. Hãy trao bằng khen cho những người hành kế. Như vậy bằng khen mới thật có giá trị và căn bệnh thành tích mới bớt sự trầm kha.
Tuổi tác và đạo đức
(Trích Đại Trang Nghiêm kinh luận, quyển 1)
Ngày xưa, có một thí chủ nọ muốn tổ chức lễ cúng dường trai tăng để cầu phước. Ông ta đi với một người bạn đền chùa để thỉnh quý thầy, và thưa với sư trụ trì :
-Bạch thầy ! Con chỉ muốn thỉnh chư vị trưởng lão lớn tuổi, còn các vị tăng trẻ thì xin miễn.
Lời của vị thí chủ kia khiến các chú Sa di thắc mắc :
-Sao lại không mời chúng ta nhỉ ?
Người bạn đi cùng thí chủ giải thích :
-Có lẽ vì ông ấy nghĩ chỉ có các vị lão tăng, tóc bạc da mồi, mới tích đủ công đức.
Lúc đó một vị La Hán nghe được, lắc đầu nói :
-Vị thí chủ này quả thật mê muội, chỉ chuộng cái bề ngoài già cỗi mà không yêu cái đức, cái tài của người tu. Chẳng lẽ ông ta không hiểu dù cho già đến đầu bạc răng long mà thiếu trí tuệ, thiếu giới hạnh thì cũng vô dụng ư ? Không phải già mới là trưởng lão đại đức. Cái quý là sự tu tập, diệt ác, đủ trí tuệ, để giữ mình trong sạch không sa ngã. Thôi được rồi, để mai chúng ta sẽ đến đó giúp ông ta thay đổi cách nhìn.
Nghĩ vậy, qua ngày hôm sau các vị La Hán đều biến thành những lão tăng lụ khụ đi đến nhà vị đàn việt kia. Vừa nhìn thấy các lão tăng, chủ nhà niềm nở ra đón, đốt hương đèn, rải hoa thơm một cách trịnh trọng, nhưng khi các lão tăng vừa an toạ, thì họ đều biến thành các Sa di trẻ.
Chủ nhà thấy vậy ngạc nhiên hỏi :
-Có phải các Ngài đã uống được nước cam lồ nào chăng mà mới già đó đã biến thành trẻ rồi ?
Các vị sa di liền giải thích :
-Không phải chúng tôi chỉ là Sa di, vì thí chủ chỉ ái kính lão tăng, có ý kỳ thị phân biệt tuổi tác, e rằng sự suy nghĩ đó có thể phá hoại thiện căn của ông nên mới biến dạng ra người già, để giúp ông ăn năn tỉnh ngộ thôi.
Các Sa di lại tiếp :
-Thật ra thì người học đạo không nên phân biệt chỉ nhìn bề ngoài, mà phải xem xét trí tuệ và công đức người tu hành. Một người tu hành tuy nhỏ tuổi mà đoạn trừ được những phiền não thì đã là người đắc đạo rồi, còn nếu tuổi cao tóc bạc mà vẫn chưa đoạn trừ hết tham sân si thì vẫn là kẻ ấu trĩ.
Đức Phật dạy : “Một người trở nên cao thượng, có đạo đức, được tôn quý, chưa hẳn vì người đã xuất thân trong một gia đình cao quý, có địa vị quyền lực, lại càng không phải vì người đó có nhiều bằng cấp, học vị; lại càng không phải vì người đó có dung mạo đẹp đẽ. Bởi vì,một người dù hội đủ ba tiêu chuẩn trên, nhưng đời sống của người đó không giới hạnh, tham nhũng, tà dâm, lừa dối, không có trí tuệ, si mê, làm ác . . . thì làm sao được xem là có đạo đức, đáng được cung kính ? Ngược lại, một người dù không có những tiêu chuẩn trên, nhưng lại có trí tuệ và giới hạnh, thì người đó xứng đáng được gọi là Sa môn, được tôn kính, cúng dường ? (Kinh Trường A Hàm, Kinh Chủng Đức)
Tiêu chuẩn đạo đức của một người theo Phật giáo, được đánh giá qua trí tuệ giải thoát và giới hạnh thanh tịnh. Giới hạnh là những nguyên tắc sống đem lại sự an lạc giải thoát, mang đến hạnh phúc cho mình và cho người. Trí tuệ chính là sự thấy rõ sự thật duyên khởi, bản chất của cuộc đời hư giả. Với trí tuệ liễu tri về cuộc đời như vậy, con người rời bỏ, chế ngự tham, sân, si và ái dục. Trí huệ và giới luật là nhân quả của nhau. Không có việc một người có trí tuệ mà không giữ giới. ngược lại, người nghiêm trì giới luật thanh tịnh chắc chắn sẽ có trí tuệ. Giới hạnh và trí tuệ là điều tối thắng ở trên đời.
Với hai tiêu chuẩn đạo đức đó, không kể là người trong đạo hay ngoài đời, giàu hay nghèo, có học hay thất học, già hay trẻ, hễ ai tu tập và thành tựu được trí tuệ và giới hạnh giải thoát thì người đó xứng đáng được tôn kính cúng dường.
Tu dưới gốc cây.
Minh Đức
Thầy trụ trì đang cùng sư bác tôi bàn chuyện trùng tu chùa thì có một người bạn đến thăm. Sau khi thăm hỏi nhau, biết chuyện thầy tôi sắp sửa chùa, người bạn phàn nàn :
-Mấy thầy làm cho lắm vậy chứ ngày xưa Phật tu hành dưới gốc cây thì sao. Khi chưa thành Phật, Ngài cũng là một con người như chúng ta vậy thôi.
Tôi thấy người khách có vẻ tự nhiên quá, chắc nghĩ mình là bạn của quý thầy nên mới nói chuyện không cẩn trọng. Tôi vốn trực tính, định lên tiếng thì thầy tôi cười bảo người bạn :
-Bởi huynh không biết đó thôi, chùa muốn sập rồi.
Sư bác tôi ngồi bên cạnh cũng buộc miệng nói :
-Chùa dựng lên để làm nơi giảng dạy và tu tập Phật pháp cho nhiều người. Nếu không có cơ sở hoằng pháp thì Tăng Ni, Phật tử tu học ở đâu ? Một người thì dễ, còn chục người, trăm người thì phải làm sao ? Chẳng lẽ ngồi dưới gốc cây phơi mưa, phơi nắng để giảng dạy Phật pháp và tu tập hay sao ? Lúc mưa chan, nắng dội trên đầu liệu có ngồi đó tu tập được hay không hay phải kéo nhau chạy đi tìm chỗ trú mưa, trú nắng. Đạo Phật là đạo trí tuệ, nếu làm việc mù quáng, cố chấp như vậy chẳng phải để người đời chê cười sao ? Thời Đức Phật còn tại thế, Ngài cho lập những tịnh xá như Trúc Lâm, Kỳ Viên, Kỳ Hoàn để làm nơi an trú tu hành cho chư Tăng, sinh hoạt theo nề nếp tổ chức Giáo hội. Đến mùa mưa việc du hoá bất tiện thì chư Tăng an cư kiết hạ cấm túc tại các tịnh xá.
Người khách ngồi lắng nghe và gật đầu tán thành lời sư bác tôi nói:
-Vâng đúng như vậy. Tôi suy nghĩ nông cạn quá. Xin cám ơn thầy đã giải thích.
Sau khi người khách về, thầy tôi nói với tôi :
-Ông ấy cũng có những suy nghĩ của ông ấy, nhưng nếu có người chỉ chỗ sai lầm thì ông ấy sẽ thay đổi cách nghĩ đó thôi.
Bình đẳng.
Minh Đức
Trong một buổi lễ, có vị khách tỏ vẻ không hài lòng khi thấy chư tôn Hoà thượng chứng minh được thỉnh ngồi ở ghế trên. Ông nói :
-Đạo Phật là đạo bình đẳng, sao lại có thứ bậc và phân biệt đối xử ? Tôi thấy các vị đặt ra giáo phẩm cao thấp, nào là Đại đức, Thượng toạ, rồi Hoà thượng, Ni trưởng, Ni sư .
Thầy tôi giải thích :
-Đó không phải là phân chia thứ bậc để phân biệt đối xử. Mà đó chính là tinh thần công bằng bình đẳng. Đức Phật dạy : Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, ai cũng có thể giác ngộ thành Phật. Ai có tu tập thì có an lạc giải thoát, dụng công tu tập được bao nhiêu thì đạt được an lạc giải thoát bấy nhiêu, cũng như làm nhiều hưởng thành quả nhiều, làm ít hưởng ít. Bất cứ ai cũng thế, không thiên không lệch, đó là lẽ công bằng, bình đẳng. Luật nhân quả được xem là cán cân công bằng. công đức, phước báu cũng do sự tu tập mà có. Người có đạo hạnh uy đức thì được mọi người tôn trọng cung kính, đó là lẽ đương nhiên. Kẻ hậu học mà đem sánh ngang hàng với các bậc tiền bối lão thành, hoặc đối đãi với những bậc có công đức ở đời cũng như đối đãi với những kẻ không ra gì vô năng, vô đức, thì đâu có thể xem là bình đẳng. Xã hội cũng thiết lập tôn ti trật tự trên tinh thần bình đẳng này. Có như thế xã hội mới công bằng và không rối loạn.
Người khách im lặng không nói gì.