- Avant - Propos
- Chapitre I: La Littérature Sous La Dynastie Des Lý
- Chapitre II: La Littérature Sous Les Dynasties Des Trần Et Hồ
- Chapitre III: La Littérature Sous Les Dynasties Des Lê Et Mạc.
- Chapitre V: De 1740 Au Début Du Xixè Siècle
- Chapitre VI: La Littérature Sous Les Nguyễn Dans Leur Dernière Période De Pleine Souveraineté.
- Chapitre VII: La Littérature De 1862 À 1913.
Reçu premier docteur en 1538, sous la dynastie des Mạc, qui le firent ministre et duc.
En 1540, les Chinois s’apprêtèrent à envahir le Việt Nam, soi-disant pour punir les Mạc d’avoir usurpé le trône des Lê. Leur général en chef, Mao Bá Ôn, pour sonder l’état d’esprit des Việtnamiens, leur envoya le poème suivant où il compara les forces du Việt Nam à la lentille d’eau qu’un simple coup de vent (une seule attaque chinoise) suffirait à disperser (Việt sử tân biên III, page 31).
隨 田 逐 水 貌 央 鍼
Tùy điền trục thủy mạo ương châm
到 處 看 來 實 不 深
Đáo xứ khan lai thực bất thâm
空 有 本 根 空 有 幹
Không hữu bản căn không hữu cán
敢 生 枝 節 敢 生 心
Cảm sinh chi tiết cảm sinh tâm.
徒 躇 自 處 明 知 散
Đồ trừ tự xứ minh tri tán
但 識 浮 時 那 識 沈
Đản thức phù thì na thức trầm.
大 氐 中 天 風 氣 惡
Đại để trung thiên phong khí ác
掃 歸 湖 海 便 難 尋
Tảo qui hồ hải tiện nan tầm.
Mao Bá Ôn
Le texte est traduit en vietnamien par Phạm Văn Sơn:
VỊNH CÁNH BÈO
Ruộng nước lênh đênh nhỏ tựa kim,
Nơi nơi trông thấy mọc nông mèm,
Đã không cành cỗi còn không gốc,
Dám có rễ mầm lại có tim.
Nào biết nơi tan duy biết tụ,
Chỉ hay khi nổi nọ hay chìm.
Giữa trời giông tố thình lình nổi,
Quét bạt ra khơi hết kế tìm.
Sur les rizières pleines d’eau elle ressemble à des aiguilles,
Et n’a, en aucun endroit, une attache vraiment profonde.
Sans racines ni tronc,
Comment pourrait-elle avoir des branches et un cœur ? 1
Elle s’assemble sans savoir qu’elle sera bientôt dispersée,
Et flotte sans prévoir le moment où elle sera submergée.
Mais voici qu’en plein ciel un orage éclate,
Et la chasse jusqu’aux lacs et mers sans laisser de traces.
Giáp Hải, sur l’ordre de son souverain Mạc Đăng Dung, répliqua par un autre poème glorifiant l’extrême vigueur de la lentille d’eau malgré son apparente faiblesse (Việt sử tân biên III, page 32) :
錦 鱗 密 密 不 容 鍼
Cảm lân mật mật bất dung châm
對 葉 連 根 不 計 深
Đối diệp liên căn bất kế thâm
上 與 白 雲 爭 水 面
Thượng dữ bạch vân tranh thủy diện
掯 教 紅 日 照 波 心
Khắng giao hồng nhật chiếu ba tâm.
千 叢 浪 打 聲 難 破
Thiên tùng lãng đả thanh nan phá
萬 陣 風 吹 永 不 沈
Vạn trận phong xuy vĩnh bất trầm.
多 少 魚 龍 藏 這 裏
Đa thiểu ngư long tàng giá lý
太 公 無 計 下 鉤 尋
Thái công vô kế hạ câu tầm.
Le texte est traduit en vietnamien par Phạm Văn Sơn:
VỊNH CÁNH BÈO
Vẩy gấm khen dầy chẳng lọt kim,
Lá liền dễ mọc kệ nông mèm,
Mây bạc không cho soi thủy điện,
Ánh hồng đâu dễ dọi ba tâm.
Sóng dồn ngàn lớp không xô vỡ,
Gió rập muôn cơn khó đánh chìm.
Rồng cá ít nhiều nương dưới đó,
Cần câu Lã Vọng hết mong tìm.
Comme des écailles de phénix serrées sans laisser passer une aiguille,
Sa nappe, constituée par ses feuilles opposées et ses racines emmêlées, n’a pas besoin d’être profonde.
Elle empêche les nuages blancs de se mirer sur la surface de l’eau
Et la lumière rouge du soleil de pénétrer jusqu’au cœur du fleuve
Mille flots se succédant ne sauraient la disperser,
Ni dix mille coups de vent la submerger.
Poissons et dragons se cachent sous son abri ;
Le pêcheur y jetterait en vain sa ligne !
Le général chinois, d’une part intimidé par le souvenir de la cuisante défaite subit par les Chinois un siècle plus tôt, d’autre part comblé de présents envoyés secrètement par Mạc Đăng Dung, ne fit plus de difficultés pour retirer ses troupes de la frontière.
Et le poème de “La lentille d’eau” de Giáp Hải acquit la gloire d’avoir repoussé à lui seul l’armée chinoise d’invasion. Heureux temps où un poème bien ciselé suffisait à résoudre les conflits internationaux !