A . Giải Thích Cổ Điển .
1) Toàn Quẻ :
Truân là bắt đầu một vận hội, còn khó khăn và mù mờ. Nên tiếp sau quẻ Truân là quẻ Mông.
- Mông, sơn hạ hữu, hiểm nhi chỉ mông. Đây là lấy tượng quẻ, đức quẻ, mà thích tên quẻ : dưới có núi hiểm, trong hiểm mà ngoài chẳng dám bước vào, tượng như con trẻ, đồng mông.
- Mông hanh, dĩ hanh hành thời trung, phỉ ngã cầu đồng mông, đồng mông cầu ngã, chí ứng dã. Đọc lời này, nên chú ý hai chữ thời trung. Nếu dạy học chẳng đúng thời, thì người thụ giáo chẳng vui nghe, mà công dạy cũng uổng phí vô ích. Cửu Nhị có đức dương cương đắc trung, là thầy phát mông. Còn Lục Ngũ là chủ đám mông, đám học trò mù mờ. Nếu thầy sẵn lòng dạy trò và trò cũng hết lòng theo thầy, tất nhiên được hanh. Nhưng trò phải hạ mình tìm thầy, chứ thầy không nên với cao mà tìm trò.
2) Từng Hào :
Sơ Lục : trò ngu tối, hôn ám, phải dùng kỷ luật để bắt nó vào khuôn phép, nhưng không nên lạm dụng kỷ luật. (Không nên dùng roi vọt như thời xưa, cũng không nên buông thả như thời nay).
Cửu Nhị : dương cương đắc trung, chỉ người con hoặc bề tôi giỏi, có thể sửa đổi lỗi lầm của cha hoặc quân vương là Lục Ngũ. (Ví dụ ông Thuấn hiền có cha là Cổ Tẩu ác. Hoặc Khổng Minh giỏi giữ vững được ngôi vua cho Hậu Chủ ngu tối).
Lục Tam : âm nhu bất chính, chỉ trò bất chính, chớ có nhận dạy, hoặc người con gái bất chính, chớ lấy làm vợ.
Lục Tứ : âm hào cư âm vị, lại ở thượng quái, chỉ vị hôn quân chung quanh lại toàn tiểu nhân, bậc hiền tài nên xa lánh. (Ví dụ : biết Lưu Biểu tài hèn, mặc dù có Kinh Châu mà sẽ không làm nổi sự nghiệp, nên Từ Thứ bỏ đi tìm chủ khác).
Lục Ngũ : âm hào cư vị chí tôn, chỉ bậc quân vương ngu tối nhưng có thiện chí, chịu tín nhiệm bề tôi giỏi là Cửu Nhị. (Ví dụ : khi Khổng Minh còn sống Hậu Chủ còn nghe lời).
Thượng Cửu : dương hào cư âm vị, ở thời Mông chỉ kẻ cương cường nhưng ngu tối. Nếu công kích nó nặng lời, thì nó nổi khùng không nghe. Nếu khéo dẫn nó, thì có thể có kết quả tốt. (Ví dụ Án Anh khuyên can vua Tề khéo léo, vua Tề không bị chạm lòng tự ái nên nghe theo ).
B . Nhận Xét Bổ Túc.
1) Ý nghĩa quẻ Mông :
a) Tượng quẻ là trước mặt có núi chặn, sau lưng có sông ngăn, hoặc một mặt bị lực lượng bảo thủ lôi kéo và một mặt bị lực lượng cấp tiến thúc đẩy, phân vân khó nghĩ, mù mờ.
b)Và kết quả của sự xung đột này, cơ cấu quẻ Mông cho ta thấy rằng kinh nghiệm mạo hiểm từng trải (hạ quái Khảm) có thể thắng được tình trạng cản trở (của thượng quái Cấn), nghĩa là phải tự giáo dục bằng kinh nghiệm bản thân, hoặc giáo dục kẻ trì độn bằng tấm gương hành động.
2) Bài Học .
a) Trước một việc mà mình còn mù mờ chưa hiểu, cần phải thỉnh giáo một người nào có kiến thức hơn mình. Đó là vấn đề giáo dục cho trẻ thơ, hoặc chỉ giáo dục bậc quân phụ. Trong quẻ này, hào Cửu Nhị là bậc thầy minh triết, hai hào Sơ Lục và Lục Tam ở hạ quái là trẻ con, còn ba hào Tứ, Ngũ, Thượng ở thượng quái là bậc quân phụ ngu tối.
b) Việc khó khăn mới xuất hiện, chưa rõ rệt, ta chớ nên khinh thường bỏ qua nó, hoặc rối trí loạn tâm, mà phải bình tĩnh đối phó ngay, ngăn chặn nó ngay. Áp dụng vào việc trị quốc, thì phải bình tĩnh giải quyết sự chống đối mới chớm nở. Áp dụng vào việc tề gia, thì chồng phải khéo bắt vợ vào khuôn phép ngay từ tuần trăng mật, hoặc phải giáo dục con cháu từ khi chúng còn bé, dễ uốn nắn. Nghĩa là, đứng trước một khó khăn nguy hiểm (Khảm), ta phải xử dụng đức tính cương của Cấn.
c) Quẻ này lại còn một bài học quan trọng nữa, chứa đựng trong Soán từ : “Mông, hanh. Phỉ ngã cầu đồng mông, đồng mông cầu ngã”, nghĩa là thầy không nên tìm đến trò, trái lại trò phải tìm đến thầy. Nói một cách khác, khi mình thấy có bậc trưởng thượng hoặc bạn hữu có vấn đề khó giải quyết, mình chớ vội lên mặt thầy đến chỉ bảo, có khi bị thương tổn tình nghĩa với người đó mà không ích gì. Mình nên đợi người ta đến vấn kế, chắc chắn người ta tin mình, lúc đó sẽ chỉ dẫn. Đó không phải là thái độ ích kỷ, mà chỉ là thận trọng. Như Lưu Kỳ vấn kế Khổng Minh để tránh bị Sái phu nhân mưu hại, Khổng Minh ba lần bẩy lượt từ chối, mãi sau mới hiến kế bảo Lưu Kỳ xin với cha ra trấn thủ Giang Hạ thay Hoàng Tổ.